Thân tướng nữ nhân của Bồ tát đối với nền tâm linh Phật giáo Việt

Bồ tát Quán Thế Âm chính là hiện thân của sự bảo hộ tâm linh toàn diện trong tâm thức của tín đồ Phật giáo và cũng là một phần văn hóa tín ngưỡng trong nền tâm linh của người Việt. Vì chính những thần linh mà người Việt kính ngưỡng từ ngàn xưa đều được tôn xưng là “Mẫu”, và con trai trưởng đi theo Tổ Mẫu Âu Cơ lên núi mới chính là vua đầu tiên của nhà nước Văn Lang. Từ đó mới thấy được giá trị thiêng liêng trong thân tướng nữ nhân của Bồ tát đối với nền tâm linh Phật giáo Việt.

Bồ tát Quán Thế Âm (Phạn ngữ: Avalokiteśvara) trong tín ngưỡng người Việt là một vị Bồ tát có tâm đại bi – đại từ được đề cập trong kinh văn Phật giáo Đại thừa; và tín đồ Phật giáo Đại thừa đều tin kính Ngài là một vị Bồ tát biểu trưng cho sự thương yêu và cứu độ. Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt thì hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm trong thân tướng người nữ là phổ biến nhất, có lẽ đây là phương thức thờ phượng chính yếu của người Việt đối với đức Quán Thế Âm từ ngàn xưa.

Bồ tát Quán Thế Âm với đại nguyện tùy duyên hóa độ và cứu giúp, từ đó Ngài tùy cảnh mà hóa thân, vậy nên việc định hình Ngài trong một thân tướng cố định là điều nghe chừng có vẻ phi lý, nhưng có thể nói tâm tư của người Việt chỉ quen gắn liền Ngài với thân tướng người nữ có tôn dung hiền từ bi mẫn của một người mẹ, cũng từ đó mà Ngài còn có tên gọi dân dã là “Mẹ Quán Thế Âm”. Sự kiện này có thể xuất phát từ nội dung kinh văn Diệu Pháp Liên Hoa khi mà Phật thuyết về Bồ tát Quán Thế Âm với đại nguyện: “Đức Phật dạy Bồ tát Vô Tận Ý, thiện nam tử, người ở thế giới nào nên hóa độ bằng thân hình Phật thì Quan Âm đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp;… Những người nên hóa độ bằng thân hình phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan và Bà-la-môn, thì đại sĩ biến thể những thân hình phụ nữ ấy mà thuyết pháp”. Việc Ngài hóa hiện nhiều thân tướng là điều dễ hiểu, bởi chúng sanh có vạn tướng mà tâm tính lại chẳng đồng; như vị lương y tùy bệnh mà cho thuốc, Bồ tát Quán Thế Âm cũng vì chúng sanh mà hóa hiện thân tương hợp. Nhưng cũng không phải vô tình mà dân Việt ta lại thường có nhiều thiện cảm với Bồ tát qua thân tướng nữ nhân; và hình ảnh Bồ tát trong sự biểu hiện của tay cầm “tịnh bình và cành dương liễu” đã trở thành biểu tượng che chở như người mẹ hiền trông xa những đứa con ở nhân gian… Lý giải cho biểu hiện này chính là do văn hóa dân ta vốn đề cao người mẹ, người mẹ như linh hồn của con cái, của gia đình và của đất nước.

Như vậy, trong nhận thức tâm linh người Việt, người nữ giữ vai trò rất quan trọng. Việc tôn kính Bồ tát Quán Thế Âm với hình tướng nữ không những không hạn chế phẩm chất của Ngài; ngược lại, còn giúp khẳng định tâm thế của Bồ tát trong tâm tư người Việt rất quan trọng và cao quý. Bởi thân tướng nữ của Bồ tát đã hòa vào hình ảnh người phụ nữ thiêng liêng của dân tộc Việt – đó là “người mẹ” của Tổ quốc từ ngàn xưa.

Tâm bi hùng mạnh như sấm – Lòng từ hiền dịu như mây

Phật giáo đã từ lâu dung hợp với văn hóa Việt để trở thành tín ngưỡng của số đông quần chúng và trở thành tôn giáo của dân Việt với bản sắc riêng. Vì vậy, việc hình nhi hạ một hình tượng nào đó trong Phật giáo cũng không ngoài việc tiếp cận và phổ biến Phật giáo một cách đa dạng trong xã hội người Việt. Cụ thể ở đây là việc hình nhi hạ về đức Bồ tát Quán Thế Âm trong biểu tượng của một người nữ, không những vậy, người nữ đó còn là “người mẹ” riêng biệt của dân Việt tự bao đời.

Khi hình nhi hạ Bồ tát với hình ảnh của người mẹ, có thể thấy sự hình dung về Bồ tát trở nên dễ dàng hơn trong nhận thức quần chúng.

Từ một nhân vật có nghĩa vượt thoát mọi hình tướng của Phật giáo, là phạm trù của hình nhi thượng mang nghĩa “Siêu hình ly tướng”, Bồ tát Quán Thế Âm được dân gian gọi một cách giản dị nhưng rất thiêng liêng là “mẹ”. Cũng chính danh xưng “mẹ” lại rất phù hợp đức tính của Quán Thế Âm với “Tâm bi hùng mạnh như sấm, lòng từ hiền dịu như mây”, người mẹ của sự yêu thương và bảo bọc liên lỉ không bao giờ dứt như mạch nước “trong nguồn chảy ra”. Khi hình nhi hạ Bồ tát với hình ảnh của người mẹ, có thể thấy sự hình dung về Bồ tát trở nên dễ dàng hơn trong nhận thức quần chúng. Đây vừa là công việc nhập thế tích cực cũng vừa là quần chúng hóa đức tin về đức Quán Thế Âm. Bởi nhờ vị thế của một Bồ tát có tầm thế rất quan trọng trong triết học Phật giáo Đại thừa với những kinh điển liên quan mang đậm tính siêu việt, rất khó để quần chúng có thể tiếp cận một cách rộng rãi, nhất là với quần chúng xuất thân bình dân trong xã hội cũ. Hơn hết, khi người Việt tôn kính “người mẹ” như hồn quê linh thiêng, như nước non quý trọng, hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm trong nhận thức người Việt xưa cũng được tôn kính như thế.

Trong dân gian, nếu ai có nguyện ước gì đều đến tôn tượng của Ngài để cầu xin, và Bồ tát trong tư thế đứng lộ thiên với “tay cầm tịnh bình chứa cam lộ thủy” đã là biểu tượng kinh điển trong tín ngưỡng thờ phượng Ngài. Vì lẽ đó, tôn dung Thánh tượng của Ngài được biểu hiện qua nhiều hình trạng như: Quán Âm Tống Tử, Quán Âm Thị Kính,… Những hình tướng này là để phù hợp với từng đức tính của Bồ tát tương ứng với ước nguyện của tín đồ.

Mặt khác, Bồ tát trong dân gian cũng thường được tôn kính vì tâm đại bi của Ngài. Không gì là Bồ tát không nghe – không gì là Bồ tát không giúp trong hạnh nguyện của Ngài và lẽ tất nhiên, sự linh ứng với Ngài không thể nào có được với một tâm tạp nhiễm, với một sự ích kỷ hẹp hòi của người cầu xin. Đó cũng là lý do tín ngưỡng nguyện cầu đến Ngài có lúc bị hiểu lầm là sự đổi chác đức tin thấp kém bởi một số người. Trong kinh văn, tâm đại từ – đại bi của Ngài được biểu đạt qua đoạn Phật ngôn, “Thiện nam tử! Nếu có vô số trăm ngàn vạn ức chúng sanh đang chịu đựng các điều khổ não, hết lòng xưng danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài liền lắng nghe theo âm thanh đó mà giải thoát cho hết thảy”. Điều này xác chứng, muốn được ơn cứu độ của Bồ tát đòi hỏi phải có lòng chí thành tôn kính, nhất nguyện khẩn cầu mới có thể được linh ứng.

Bất kể Ngài được biểu hiện ở nhiều thân tướng, người Việt vẫn ưu ái tôn thờ Ngài trong thân tướng người phụ nữ.

Bồ tát Quán Thế Âm chính là hiện thân của sự bảo hộ tâm linh toàn diện trong tâm thức của tín đồ Phật giáo và cũng là một phần văn hóa tín ngưỡng trong nền tâm linh của người Việt. Danh xưng “Phật Bà” hay là “Mẹ Quán Thế Âm” chính là minh chứng rõ nét nhất thể hiện niềm tin kính sâu xa và mãnh liệt của tín đồ Phật giáo Việt dành cho Ngài. Bất kể Ngài được biểu hiện ở nhiều thân tướng, người Việt vẫn ưu ái tôn thờ Ngài trong thân tướng người phụ nữ. Đó là sự tôn kính cao nhất mà người Việt dành cho Ngài và đức tính của Ngài. Vì chính những thần linh mà người Việt kính ngưỡng từ ngàn xưa đều được tôn xưng là “Mẫu”, và con trai trưởng đi theo Tổ Mẫu Âu Cơ lên núi mới chính là vua đầu tiên của nhà nước Văn Lang. Từ đó mới thấy được giá trị thiêng liêng trong thân tướng nữ nhân của Bồ tát đối với nền tâm linh Phật giáo Việt.

 

>>Xem thêm: Quan Âm Bồ Tát trong lịch sử nghìn năm của Việt Nam

Nguồn: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo

Bình luận
Tin cùng chuyên mục