Tìm hiểu tư tưởng Thiền của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ

Các vua Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… khi điều hành đất nước vẫn nghiên cứu về Phật giáo và để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có nội dung tư tưởng Phật giáo sâu sắc. Tư tưởng Trần Nhân Tông nói riêng và tư tưởng của Phật giáo Trúc Lâm nói chung, là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời khỏi hệ thống tư tưởng Thiền đời Trần; trong đó, nổi bật và có vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng chi phối là tư tưởng của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ.

Tư tưởng về Thiền của Trần Thái Tông

Vua Trần Thái Tông (1218 – 1277). Tên thật là Trần Cảnh, vị vua đầu tiên của triều Trần, lên ngôi năm Ất Dậu (1225) khi mới 7 tuổi. Trần Thái Tông đã góp phần quyết định vào việc xây dựng đất nước thịnh trị, mở đường cho cả ba trào lưu tư tưởng Nho – Phật – Đạo phát triển lên một tầm cao mới. Ông nhường ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng năm 1258, từ đây chuyên tâm học Phật và hai mươi năm sau mới qua đời.

Vua Trần Thái Tông (1218 – 1277).

Tác phẩm của Trần Thái Tông hầu hết đều liên quan đến Phật giáo: Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam ca, Lục thì sám hối khoa nghi… Tư tưởng về Phật giáo của Trần Thái Tông được thể hiện tập trung trong tác phẩm Khóa Hư Lục. Quan niệm về Thiền định của Trần Thái Tông rất đặc sắc, thể hiện trên 3 điểm cơ bản: Một là quan điểm tam giáo, không những Thích Ca ngồi thiền mà Tử Cơ, nhân vật trong sách Trang Tử thuộc Đạo giáo cũng ngồi thiền, Nhan Hồi học trò của Khổng Tử cũng ngồi Thiền. Hai là, cách giải thích tứ thiền cũng hoàn toàn khác với phàm phu, tiểu giáo, đại giáo; đây là điều chưa thấy trong Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa. Ba là, cách giải thích đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền như trong kinh Phật đề cập; Trần Thái Tông cho rằng, các động tác đi, đứng, nằm không thích hợp với thiền định, duy ngồi thiền là thích hợp nhất.

Trần Thái Tông đưa ra Giới- Định- Tuệ, tức tam học là con đường để giải thoát, muốn được giải thoát phải thực thi tam học; đây chính là tư tưởng Bát Nhã. Cách giải thích Giới- Định- Tuệ của Trần Thái Tông mang nhiều nét độc đáo, sáng tạo. Trần Thái Tông cho rằng: “Luận giải thoát nói, “Giới- Định- Tuệ gọi là đạo giải thoát”. Giới nghĩa là uy nghi, Định có nghĩa là chẳng loạn, Tuệ là nghĩa giác tri. Lấy Giới để trừ ác cấu, lấy Định để trừ triền cấu, lấy Tuệ để trừ sử cấu. Cho nên, dùng giống thiện này (Giới- Định- Tuệ) mà theo đạo, gọi là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện…” [1].

Về sinh, lão, bệnh, tử, Trần Thái Tông cho rằng: “Đã trái không sinh không hóa, mải làm có hóa có sinh, có hóa có sinh nên có sinh có hóa. Hoặc sinh thánh hiền ngu trí, hoặc hóa vẩy cánh lông sừng. Luôn luôn chìm đắm nơi bến mê, mãi mãi trôi lăn trong biển khổ. Mờ mờ, mịt mịt, nào biết, nào hay, rối rắm lăng xăng, chẳng tỉnh chẳng ngộ. Trọn là buông tâm chạy đi, đều không nắm mũi heo về. Khiến đến qua lại sáu đường, xuống lên bốn núi. Bốn núi là: sinh, già, bệnh, chết” [2].

Về niệm Phật luận, Ông chia người tu đạo thành ba bậc: Thượng trí, trung trí, hạ trí. Bậc thượng trí thì tâm tức là Phật, chẳng nhờ tu thêm, Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Bậc trung trí, ắt nương niệm Phật, chú ý chuyên cần, niệm Phật chẳng quên, tự tâm thuần thiện. Khi niệm là diệt đi ý niệm ác, trở về với chính đạo, thấy được Niết bàn, tìm được “Thường- Lạc- Ngã- Tịnh”. Bậc hạ trí, miệng siêng lời niệm Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sinh về nước Phật. Nhờ ngày đêm siêng năng tu hành, được chư Phật dạy bảo chính pháp, chứng được quả Bồ Đề cũng vào quả Phật. [3]

>>Xem thêm: Mối liên hệ giữa Phù Vân Quốc Sư và vua Trần Thái Tông

Tư tưởng về Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ

Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 – 1291), tên thật là Trần Tung, hiệu Tuệ Trung Thượng sĩ, người làng Tức Mặc, lộ Thiên Trường. Trần Tung là con trai Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và từng theo học Thiền sư Tiêu Dao. Ông là một trong những nhà thiền học có bản lĩnh. Ông được vua Trần Thánh Tông tôn làm sư huynh và vua Trần Nhân Tông tôn làm thầy. Quan niệm về thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ rất độc đáo, sống hết mình theo quy luật, theo tâm, không cần ai, không cần canh ai, đó là thiền rồi, đi cũng thiền, ngồi cũng thiền Tuệ Trung Thượng sĩ gắn liền tâm với Phật. Trong bài Phật tâm ca ông cho rằng: “Nếu khi tâm sinh là Phật sinh/ Nếu khi Phật diệt là tâm diệt/ Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu/ Diệt Phật còn tâm khi nào hết” [4].

Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 – 1291), tên thật là Trần Tung, hiệu Tuệ Trung Thượng sĩ, người làng Tức Mặc, lộ Thiên Trường.

Tuệ Trung làm sáng tỏ cái bên trong của tâm và Phật tác động đến con người. Đó là lý vạn pháp trong tâm, vạn pháp là thế giới bên ngoài, hiện tượng xung quanh ta, là sự vận động nói tiếp, tuần hoàn của tự nhiên. Ông bác bỏ những ràng buộc của nhà Phật như ăn chay, giữ điều răn: “Ăn rau cùng ăn thịt/ Chúng sinh nỗi sở thuộc” [5]. Không giữ giới: “Giữ giới cùng nhẫn nhục/ Chuốc tội chẳng chuốc phước/ Chẳng giữ giới nhẫn nhục” [6]. Chữ không trong thơ Trần Tung mang nội hàm phong phú với tư tưởng căn cội của Phật giáo, sự hiện hữu không gian thiên nhiên khoáng đạt và xúc cảm nhân sinh sâu lắng. Không ở đây vừa là không diễn đạt theo ông đó là cái tôi, là hiện cảnh, tôi là thế giới hiện tượng, hành do tâm hiện ra, hành lẫn tâm đều là không, có mà không, không mà có. Tư tưởng này ông thể hiện qua bài kệ: “Ngày ngày khi đối cảnh/ Cảnh cảnh từ tâm sinh/ Tâm cảnh xưa nay không/ Chốn chốn ba la mật” [7]. Đối với Tuệ Trung Thượng sĩ, đạo và đời không tách rời nhau. Ông đã xem cuộc đời này là nơi tốt nhất để tu đạo, hành Thiền và đạt đến giải thoát. Ông đã thể hiện rõ quan điểm này trong bài Dưỡng chân (Nuôi dưỡng chân tính): “Suy táp hình hài khởi túc vân/ Phi quan, lão hạc tị kê quần./ Thiên thanh vạn thủy mê hương quốc/ Hải giốc thiên đầu thị dưỡng chân”. (Dịch: Tấm thân suy yếu kể chi mà/ Hạc nội nào đâu lẩn tránh gà/ Muôn tía nghìn xanh tràn đất nước/ Chân trời góc bể dưỡng chân tính của ta)[8]. Trong bài Phật tâm ca, Tuệ Trung đã thể hiện rõ quan niệm của mình về hành Thiền. Ông viết: “Hành diệc Thiền/ Tọa diệc Thiền/ Nhất đóa hồng lô hỏa lý liên”[9].

Tinh thần các vị thiền sư thời Trần, không những chỉ là ở trong pháp niệm Phật và pháp tu thiền, còn dung hòa luôn cả Khổng giáo, Lão giáo, không chia rẽ, không đối nghịch. Lấy Thiền tông làm chỗ dựa để dung hợp Lão, Khổng thành một. Tư tưởng Trần Thái Tông có sự dung hợp của ba yếu tố Nho- Phật- Đạo, trong đó lấy Phật giáo làm trung tâm. Cách lý giải kinh Phật của ông có nhiều điểm sáng tạo, có chứa đựng những yếu tố mới. Trong quan niệm về Tứ sơn Trần Thái Tông, kết hợp tư tưởng Bát Nhã tứ đại giai không, với lý luận Âm Dương. Trong vấn đề sinh lão bệnh tử, thể hiện cái nhìn của ông về cuộc đời, ông đã nhìn thấu lẽ sinh tử của cuộc đời. Ở Tuệ Trung nổi bật lên một tinh thần phá chấp triệt để. Ông quan niệm rằng, mọi sự đối lập giữa mê và ngộ, sắc và không, giữa phàm và thánh, giữa ta và người, Phật và chúng sinh, phải và trái, chính và tà, giữa phiền não và bồ đề… Chính tinh thần cởi mở, phóng khoáng, phá chấp triệt để, không biến mình thành nô lệ của giới luật mà Tuệ Trung đã đạt đến trình độ thượng thừa của Thiền, được Trần Nhân Tông suy tôn là Thượng sĩ. Trong Thiền học Việt Nam, bên cạnh Thiền học của Trần Thái Tông, Tuệ Trung vẫn thể hiện được cái riêng của mình với những quan niệm mới, độc đáo và sâu sắc, từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Thiền học Việt Nam với phong cách tiêu dao, phóng túng của Lão – Trang./.

>>Xem thêm: Tinh thần nhập thế siêu việt của Tuệ Trung Thượng Sĩ

Dương Ngô Ninh/
Ban tuyên giáo tỉnh ủy Bắc Giang

 

[1]. Thích Thanh Từ (2008), Khóa hư lục giảng giải, Nxb Tổng hợp Tp.Hồ Chí Minh, tr.204.

[2]. Thích Thanh Từ (2008), Khóa hư lục giảng giải, Sđd, tr.71.

[3]. Thích Thanh Từ (2008), Khóa hư lục giảng giải, Sđd, tr.230-231.

[4]. Thích Thanh Từ (2008), Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr.62

[5]. Thích Thanh Từ (2008), Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Sđd, tr.62.

[6]. Thích Thanh Từ (2008), Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Sđd, tr.63.

[7]. Thích Thanh Từ (2008), Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Sđd, tr.62.

[8]. Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, Tập 2, Q. Thượng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.226.

[9]. Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, Sđd, tr.273-277.

Bình luận
Tin cùng chuyên mục