Tư tưởng đối cảnh vô tâm của Sơ Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông
Sau hơn một nghìn năm Phật giáo được truyền vào Việt Nam, trải qua một quá trình xâm nhập, kế thừa, xây dựng và phát triển, sự xuất hiện của Phật giáo Trúc Lâm ở thế kỷ thứ XIII là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp của Phật giáo Việt Nam, là một sự đơm hoa kết trái từ những đóng góp qua nhiều đời Tổ sư trên đất Việt. Để từ đó, Phật giáo Trúc Lâm đã cống hiến cho truyền thống văn hoá dân tộc những giá trị to lớn về văn hoá tư tưởng và đạo đức dân tộc, hình thành nên một nền Văn hoá Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc.
Đại biểu khai sáng và định hình tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm là Sơ Tổ Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Ngài xuất thân là một vị vua anh minh, lỗi lạc, sau từ bỏ cung vàng điện ngọc, xuất gia, tu đạo và thành đạo. Từ đó, Ngài đã hướng dẫn cho mọi người dân Đại Việt cùng học Phật và tu Phật.
Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, đến nay, nguồn tư liệu về Ngài đã bị mai một gần hết. Chúng ta chỉ có thể nghiên cứu, tìm hiểu các tư tưởng và đóng góp của Ngài thông qua một vài tác phẩm còn sót lại. Một trong những tư liệu quan trọng đó là tác phẩm Cư trần lạc đạo phú và kết tinh ở bài kệ bốn câu:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc san hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Có thể hiểu đại ý bài kệ này như sau: muốn sống vui với Đạo ở ngay giữa cuộc Đời trần tục này thì hãy biết sống tuỳ duyên, nghĩa là thuận theo nhân duyên của vạn pháp, mà cụ thể là sống hợp với quy luận vận hành của mọi sự vật hiện tượng một cách tự nhiên. Biểu hiện cụ thể của lối sống tuỳ duyên là: đói thì ăn, mệt thì ngủ, nghĩa là: việc gì đến thì làm, việc gì qua thì thôi, không hối tiếc quá khứ, không suy tưởng tương lai. Vì sao vậy? Vì trong nhà vốn sẵn của báu, trong người vốn sẵn tính Phật rồi, đâu cần phải chạy đi tìm kiếm. Nhưng mà không tìm kiếm thì làm sao thấy được của báu, làm sao dùng được tánh Phật để mà sống vui? Ngài dạy: chỉ cần “đối cảnh vô tâm” thì sẽ thấy được Phật hiện tiền, sẽ sống vui với đạo, không cần thắc mắc, hỏi han về Thiền nữa.
Như vậy, mấu chốt của vấn đề là làm sao sống được với phương châm “đối cảnh vô tâm” là có thể sống vui với Đạo. Vậy thì, thế nào là “đối cảnh vô tâm”? Hiểu thế nào về “đối cảnh vô tâm” cho đúng? Có thể nói, bốn chữ “đối cảnh vô tâm” là bốn chữ cô đọng và quan trọng nhất của bài kệ này nói riêng và của bài phú Cư trần lạc đạo nói chung.
1. “Đối cảnh vô tâm”
“Đối cảnh” là sự tiếp xúc của các giác quan với trần cảnh, mà cụ thể là sự tiếp xúc của sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý với sáu trần cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Đó là khi mắt nhìn thấy hình ảnh, màu sắc, tai nghe được âm thanh, tiếng động, mũi ngửi được mùi hương, lưỡi nếm được các vị, thân tiếp xúc với sự vật, tâm suy nghĩ các ý niệm. Nói một cách đơn giản và dễ hiểu thì “đối cảnh” là sự tiếp xúc của các giác quan của chúng ta đối với các sự vật, hiện tượng và tư duy xung quanh trong mọi hoạt động của đời sống.
Khi đối cảnh, có những trường hợp xảy ra như sau:
- Không có tâm: là sự vô cảm, không thấy, không biết, không để ý, đang lo nghĩ chuyện khác…
- Có tâm phân biệt, dính mắc: có thấy biết, nhưng không rõ, không chính xác, không thấy như thật. Sự nhận thức bị ngăn che bởi kinh nghiệm, thành kiến, điều kiện văn hóa, xã hội; tình cảm thương yêu ghét muốn… làm ảnh hưởng nên nhận biết trở nên méo mó, không trung thực.
- Tâm Không (Tâm rỗng không): là sự nhận biết có tuệ giác: thấy biết như thật, thấy thực tại như nó đang là, không có tác dụng phản ứng tâm sinh lý, là sự như như bất động, như mặt hồ lặng yên, như mặt gương soi chiếu.
Trong 3 trường hợp này thì “Vô tâm” chính là Tâm Không (Tâm rỗng không), đó là hiện tượng không có tâm si mê, tham lam và giận hờn, không có tâm dính mắc, yêu ghét, thủ xả, hơn thua…
Như vậy, “đối cảnh vô tâm” là khi các giác quan tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng và tư duy, mà các trạng thái tâm tiêu cực, phiền não như tham, sân, si, mạn, nghi… không sinh khởi.
Thông thường, mỗi khi chúng ta tiếp xúc với trần cảnh, nếu đối tượng không vừa ý thì tâm ghét bỏ, bực bội khởi lên; nếu đối tượng vừa ý thì tâm tham lam và dính mắc nổi lên, ta muốn cho đối tượng ưa thích đó tồn lại mãi, rồi khi đối tượng ko tồn tại như ý muốn của ta, tâm buồn giận lại khởi lên. Và cứ như vậy, ta sống với tâm khổ sở mà không được sống với tâm an vui. Như vậy là suốt ngày ta sống với cách: đối cảnh sinh tâm phiền não.
Ngược lại với việc đối cảnh sinh tâm phiền não là đối cảnh sinh tâm vui thích. Nhưng vì vạn pháp vốn dĩ là vô thường, tâm vui thích đó cũng tuân theo quy luật thành – trụ – hoại – không. Khi tâm vui thích không còn, thì ta lại bị hẫng hụt, trống trải… Thế rồi, ta lại lao theo trần cảnh để tìm các đối tượng khác lấp đầy khoảng trống trải đó, khiến tâm vui thích được sinh ra, cứ như vậy lao nhọc cả một đời chạy theo trần cảnh.
Ngoài hai trường hợp đối cảnh sinh tâm phiền não và đối cảnh sinh tâm vui thích là trường hợp đối cảnh mà vô cảm. Đó là hiện tượng thờ ơ, lãnh đạm và vô cảm với ngoại cảnh, không ý thức được sự có mặt của cảnh vật khi nó còn đang hiện hữu. Đây là một bệnh lý nguy hiểm, khiến cho người bệnh sống tự kỷ, tránh né tiếp xúc với thế giới ngoại cảnh.
Như vậy, khác với những trường hợp trên, Đối cảnh vô tâm là khi các giác quan tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng và tư duy, ta vẫn thấy nghe rõ ràng nhưng nhờ có chánh niệm và tỉnh giác nên không dính mắc, không sinh lòng tham lam, giận hờn và si mê, do vậy sẽ không tạo nghiệp mới. Do đó, đến khi nghiệp cũ đã trả hết, trong khi nghiệp mới không tạo thêm thì sẽ giải thoát khỏi 6 nẻo luân hồi.
Điểm cần lưu ý ở “đối cảnh vô tâm” là “có tâm”, chứ không phải không có tâm, nhưng vì có “tuệ giác” chủ động soi chiếu, chỉ có “nhận biết” mà không có các phản ứng tâm lý và hành động phát sinh, vì vậy, nhìn từ bên ngoài thì giống là “vô tâm”, nhưng bên trong thì là “có tâm” vì có tuệ giác chủ động hướng dẫn cho các tâm hành tiếp tục diễn ra sau đó. Đối cảnh vô tâm luôn có tuệ giác làm chủ, hướng dẫn chủ thể nên làm gì và không nên làm gì, đúng thời đúng lúc, đúng theo quy luật tự nhiên, đó mới đúng là “tùy duyên thuận pháp”.
2. Đức Phật dạy về “đối cảnh vô tâm” trong Kinh tạng
Ngay từ thời Phật tại thế, trong Kinh tạng Nikaya, tư tưởng “đối cảnh vô tâm” đã được đức Phật chỉ dạy cho hàng đệ tử của Ngài. Tuy nhiên, tư tưởng này được diễn đạt dưới một hình thức, ngôn ngữ khác.
Kinh Con rùa trong Tương Ưng bộ (Samyutta Nikaya) tập IV, trang 183-185 do HT Thích Minh Châu dịch, Tu thư Phật học Vạn Hạnh xuất bản 1982, đức Phật có dạy phương pháp “hộ trì các căn” như sau:
“Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thiệt hành hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng … mũi ngửi mùi … lưỡi nếm vị … thân cảm xúc … Ý nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thiệt hành hộ trì ý căn.”
Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông tại An Kỳ Sinh – Yên Tử
Ở đây, Phật dạy: Khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh, không nên nắm giữ tướng chung, tướng riêng và chế ngự những nguyên nhân nào có thể gây nên say đắm, lo buồn và những ý nghĩ, những lời nói, những hành động có hại cho mình cho người. Đó cũng chính là “Đối cảnh vô tâm” vậy.
“Hộ trì các căn” có nghĩa là giữ gìn, bảo vệ các căn đừng để tâm ý bị vương vấn, trói buộc bởi phiền não và tà kiến. Ðây cũng là đạo lý “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” mà trong kinh Kim Cương nói đến. Và cũng là phương pháp thực hiện “vô niệm”, “vô trụ” mà Lục Tổ Huệ Năng đã dạy trong kinh Pháp Bảo Đàn.
Kinh Sáu sinh vật, trong Tương Ưng Bộ, Đức Phật dạy:
Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không thiên chấp các sắc khả ái, không ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với thân niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn… khi tai nghe tiếng… khi mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm xúc… khi ý biết các pháp, không thiên chấp các pháp khả ái, không ghét bỏ các pháp không khả ái, an trú thân niệm, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Luân hồi sinh tử cũng do sáu căn, giải thoát tự tại cũng do sáu căn”. Do đó muốn giải thoát, được chứng Niết Bàn, phải đóng cửa sáu căn lại, tức là đừng để sáu căn dính mắc với sáu trần.
Trong kinh Tạp A Hàm có kể lại câu chuyện Ngài Phú Lâu Na trình xin với Phật đến một nơi vắng vẻ tu hành và xin Ngài chỉ dạy chỗ tâm yếu để chóng đạt đạo. Đức Phật dạy:
Muốn đạt được chỗ tâm yếu đó không gì hơn là mắt thấy sắc đừng bị sắc trói cột, đừng dính với sắc. Tai nghe tiếng đừng để tiếng lôi cuốn, đừng dính nhiễm với tiếng. Mũi ngửi mùi đừng bị mùi cột trói, đừng dính mắc với mùi. Lưỡi nếm đừng bị vị trói buộc, đừng dính mắc với vị. Thân xúc chạm dù cho êm ái nhẹ nhàng vui thích hay thô nhám khó chịu cũng không bị dính cột trói, đừng dính mắc với xúc. Ý duyên với pháp trần không bị pháp trần lôi dẫn, không dính mắc với pháp trần. Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, không dính mắc với sáu trần, đó là nhân đến Niết bàn.
Như vậy, tư tưởng “Đối cảnh vô tâm” là một sự kế thừa và phát huy những điều Phật đã dạy trong kinh tạng, cả Nguyên thuỷ lẫn Đại thừa.
3. Ứng dụng “đối cảnh vô tâm” trong cuộc sống hiện tại
Xây dựng sự bình an trong nội tâm
Trong cuộc sống, chúng ta gặp nhiều rủi ro, bất an và lo lắng là do sự nhận thức của chúng ta đối với thế giới không chân thực.
Khi năm giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi và thân tiếp xúc với cảnh trần, lúc chưa có ý thức (thức thứ sáu) xen vào thì sự vật hiển bày như nó đang là. Nhưng sau đó, khi ý thức xen vào thì sự vật nhận thức bị biến đổi, sinh ra thương yêu ghét muốn. Thêm vào đó, Mạt na thức (thức thứ bảy) chi phối thì lúc đó, ý niệm “ta và của ta” phát sinh, do đó mà thực tại bị lệch lạc, mù mờ không còn trung thực nữa.
Vì nhận thức thế giới không trung thực, chúng ta có khuynh hướng tưởng tượng thêm và xây dựng một khung khái niệm về đối tượng được nhận thức. Khung khái niệm này không phản ánh trung thực đối tượng nhận thức cho nên khi bất chợt nhận ra đối tượng nhận thức không như ta tưởng, các phiền não, khổ đau và bất an liền nảy sinh.
Khi biết sống với ý thức phòng hộ các giác quan, không để các phiền não phát sinh khi đối cảnh, ta có một cuộc sống an nhiên, nhẹ nhàng và sáng suốt. Khi sự việc đến, ta nhận thức rõ ràng, không chạy theo, không xua đuổi, luôn ý thức rõ về mình, về cảnh. Và đặc biệt, là luôn biết mình cần phải làm gì một cách đúng đắn nhất.
Hoa Yên – Yên Tử
Thiết lập sự sáng suốt trong các mối quan hệ của đời sống
Cuộc sống của chúng ta thường vấp phải những bất an, khổ đau là do chúng ta thường xuyên sống trong sự mê lầm, không nhận thức chân thực về các mối quan hệ xã hội, không dám đối diện và chấp nhận sự thật. Rồi khi không thể né tránh những điều trái ý, nghịch lòng, tâm ta bị rơi vào trạng thái căng thẳng, khủng hoảng và khổ đau.
Một chàng trai mới lớn, khi đối diện với một người con gái có những điểm mà anh ta yêu thích như một đôi mắt đẹp, một cái má hồng, một dáng người thon thả, anh ra dễ dàng để tâm mình chạy theo hình bóng của cô gái mà quên mất thực tại cô gái ấy là người thế nào, tính nết ra sao, hoàn cảnh gia đình và xã hội thế nào… Thế rồi sau khi kết hôn, những hình ảnh đẹp đẽ do anh ta thêu dệt ngày nào đã tan biến, mà đối diện với anh ta là một người vợ với đủ những điều khó ưa. Và thế là, địa ngục trần gian đã mở ra từ đó.
Một người công chức với mức sống trung bình, khi nghe một người môi giới bất động sản tiếp thị về một căn nhà trong mơ, anh ta đã chỉ thấy những điều tuyệt vời và chỉ tưởng tượng về những điều tuyệt vời khi được sống trong căn nhà trong mơ đó. Chỉ khi dọn về ở, anh ta mới th ấy được cái kiệt quệ, ngạt thở vì món nợ ngân hàng vì vay trả góp…
Và cuộc sống còn vô vàn những bi kịch, gây nên những oan nghiệt, tệ nạn làm nhức nhối cho xã hội bởi vì ngay từ đầu, con người ta không chịu sống trong sự sáng suốt, không nhìn nhận vấn đề cho thật rõ trước khi quyết định.
4. Kết luận
Xuyên qua các đặc điểm và tư tưởng chủ đạo của Phật giáo Trúc Lâm, thì “cư trần lạc đạo” và “hoà quang đồng trần” là hai tư tưởng nổi bật và quan trọng nhất. Thể hiện tính riêng có, độc đáo, ưu việt và phù hợp với truyền thống văn hoá của người Việt. Tuy nhiên, để có thể sống được với phương châm “cư trần lạc đạo” hay “hoà quang đồng trần”, thì trước tiên, người đó phải thực hành được tư tưởng “đối cảnh vô tâm”. Chỉ khi nào “vô tâm” được khi “đối cảnh”, thì khi đó người ta mới có thể sống giữa trần tục mà vẫn vui với đạo, tuỳ duyên mà bất biến, hoà ánh sáng giác ngộ vào trong trần ai để mà “cư trần bất nhiễm trần”, như đoá hoa sen sống giữa bùn mà không bị bùn nhơ làm ô nhiễm, hơn nữa, còn toả ngát hương sen dâng hiến cho đời.
Đại đức Thích Huệ Lương (tạp chí Khuông Việt bản in số 48-49)
Tài liệu tham khảo
- Thiền Uyển tập anh, Ngô Đức Thọ dịch, Nxb Văn học, 1990.
- Tam Tổ thực lục, Thích Phước Sơn dịch và chú giải, Viện NCPH, 1995.
- Kiến tính thành Phậtlục, trong Chân Nguyên thiền sư toàn tập, Lê Mạnh Thát, Tu thư Vạn Hạnh, 1982.
- Toàn tập Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát, Nxb TP. HCM, 2000.
- Tuệ Trung Thượng sĩvới Thiền tông Việt Nam, Viện Khoa học Xã hội – Trung tâm Nghiên cứu Hán Nôn, Nxb Đà Nẵng, 2000.
- Lê Mạnh Thát, Lịch sửPhật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb Tp. HCM, 2002.
- Tương Ưng Bộ kinh, (Samyutta Nikâya) tập IV, do HT Thích Minh Châu dịch, Tu thư Phật học Vạn Hạnh xuất bản 1982.
- Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Viện KHXHVN, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1998.