GIỚI THIỆU LUẬN THÀNH THỰC (p1)

TT.TS.THÍCH GIÁC HIỆP

Luận Thành Thực (成實論) là cơ sở phát triển tông Thành Thực (còn gọi là tông Thành thật), một trong 13 tông thuộc Phật giáo Trung Quốc, và một trong 8 tông thuộc Phật giáo Nhật Bản. Theo truyền thống, sau khi đức Phật nhập Niết- bàn khoảng 900 năm, ngài Harivarman (Ha-lê-bạt-ma) viết bộ luận Thành Thực (Satyasidhi sutra), khoảng thế kỷ thứ 3 TL, để phát huy chân lý nhị không, ngã không và pháp không.

I. LỊCH SỬ TRUYỀN THỪA

Theo truyền thuyết ngài Ha-lê-bạt-ma từng là học trò của Nhất thiết hữu bộ và không hài lòng với giáo lý của bộ phái này (Nhất thiết hữu bộ phát triển mạnh ở vùng Kashmir). Ngài muốn hình thành một nền giáo lý hoàn thiện hơn bằng cách tổng hợp tất cả những tinh túy của các truờng phái A- tỳ-đàm thành một hệ thống. Tư tưởng Thành Thực rõ ràng chỉ trích tư tưởng Nhất thiết hữu bộ. Nhưng các học giả không có thể liệt bộ luận này vào trường phái nào của Phật giáo Ấn Độ, vì tư liệu liên quan đến nó rất ít ỏi. Nhưng hiện tại có 4 giả thuyết về nguồn gốc của tư tưởng bộ luận này

1. Đây là tác phẩm chọn lọc nên không thuộc vào trường phái nào. Giống như một tập đại thành, một sự tổng hợp giáo lý của các bộ phái Phật giáo.

2.   Tác phẩm của Pháp Tạng bộ (Dharmagupaka), (đây là quan điểm truyền thống Nhật). Pháp Tạng bộ thuộc Thượng toạ bộ, chủ trương Phật và Nhị thừa đồng nhất về giải thoát mà không đồng nhất về Thánh đạo tu hành.

3. Thuộc Kinh Lượng bộ (Sautrntika). Kinh Lượng bộ cũng thuộc Thượng toạ bộ, chủ trương các uẩn chuyển từ đời này đến đời khác. Chính vì chủ trương này mà bộ này còn được gọi là Thuyết-chuyển-bộ.

4. Thuộc Đa văn bộ (Bahurutya). Quan điểm của Đa Văn bộ giống như Nhất thiết hữu bộ, tiêu biểu là luận Câu xá, cho rằng các pháp tồn tại có thật trong 3 đời, tam thế thật hữu, pháp thể thường hằng.

Cũng không có sử liệu để chứng minh rằng tác phẩm này thịnh hành ở Ấn Độ và phiên bản Sanskrit của tác phẩm cũng không còn.1

Thành Thực luận được ngài Cưu-ma-la-thập dịch sang tiếng Hán khoảng năm 411-412, thời Diêu Tần Hoằng Thỉ năm thứ 14. Thông qua việc thuyết giảng và truyền tác phẩm này cho đệ tử của mình, ngài Cưu-ma-la-thập đã truyền bá bộ luận. Một số đệ tử của ngài đã truyền bá tông này trong khoảng thời gian 411-498 TL. Có 2 học trò của ngài Cưu-ma-la-thập uyên thâm về bộ luận này, ngài Tăng Đạo và Tăng Tung. Có khoảng 24 bộ sớ giải về bộ luận Thành Thực. Hàng trăm bài giảng được thuyết giảng khắp Trung Quốc về bộ luận. Nội dung tác phẩm hơi giống Đại thừa, rõ ràng tác giả có nghiên cứu Đại thừa. Một số học giả Trung Quốc phân loại nó vào Đại thừa nhưng quan điểm này không được thịnh hành. Đệ tử nổi tiếng của ngài Huyền Trang là ngài Khuy Cơ đã xác định được nguồn gốc của tác phẩm. Ngài tuyên bố rằng tác phẩm này thuộc Tiểu thừa, Kinh Lượng bộ. Và bộ luận này chịu ảnh hưởng của trường phái Vaibhika. Tuy nhiên ngài cũng công nhận nó có khuynh hướng thiên về giáo lý Đại thừa

II. PHÁT TRIỂN Ở TRUNG QUỐC

Sau khi bộ luận Thành Thực được dịch sang tiếng Hán, tông Thành Thực được hình thành. Tuy tông Thành Thực đã suy tàn ở Trung Quốc nhưng thời gian phát triển nó cuốn hút rất nhiều vị tổ sư, nhà chú sớ và học giả. Họ đã tham gia viết chú sớ và luận bình về bộ luận Thành Thực.

1.   Dòng truyền Nam Phương Thọ Xuân

Ngài Tăng Đạo là người có công hình thành hệ thống Thành Thực Nam phương. Vào năm 440 TL ngài Tăng Đạo từ Trường An đến vùng Thọ Xuân, phương nam để hoằng truyền Thành Thực. Ngài Tăng Đạo ở chùa Thọ Xuân Đông Sơn rộng truyền, giảng thuyết vể Thành Thực và các luận thư khác. Học trò của ngài gồm: ngài Tăng Oai, Tăng Chung, Tăng Âm. Các vị rất giỏi về luận thư. Ngài Tăng Đạo (360-457 TL) là học trò của ngài Cưu-ma-la-thập, ngài thông thạo bộ luận Thành Thực. Ngài là người Trường An, xuất gia năm 10 tuổi. Tác phẩm của ngài gồm: (1) Thành Thực nghĩa sớ, (2) Không hữu nhị đế luận, (3) Tam luận nghĩa sớ.

2.  Dòng truyền Bắc Phương Bành Thành

Ngài Tăng Tung cũng là một đệ tử của ngài Cưu-ma-la-thập, ở tại Bành Thành chùa Bạch Tháp hoằng dương luận Thành Thực, hình thành nên hệ thống Bắc phương. Học trò của ngài gồm: ngài Tăng Uyên, Đàm Độ, Đạo Đăng.

Thành Thực truyền đến đời Đường, một số cao Tăng thời này cũng tham học Thành Thực. Như ngài Huyền Trang trước khi nhập Trúc cầu pháp, ngài đã từng tham học luận thư này. Tông này thịnh hành nhất vào thời đại Nam Bắc triều (420-589 TL) (Nam triều: Tống, Tề, Lương, Trần. Bắc triều: Bắc Nguỵ, Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Bắc Châu). Đến thời Đường các luận sư chia Thành Thực thành Tiểu thừa, hậu quả là sự nghiên cứu luận thư của tông giảm thiểu. Mặt khác một số kinh, luận Đại thừa đang thịnh hành như: Thập Địa Kinh Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận…và đặc biệt là Tam luận tông bắt đầu hưng phát. Do vậy Thành Thực tông suy tàn dần. Nghĩa là khoảng thời đại Đường tông này bắt đầu suy tàn và cũng trong thời đại Đường tông này được truyền vào Nhật Bản.

3   Ba vị Đại Pháp sư thời Lương

Như trên đã đề cập, tông Thành Thực được truyền bá từ thời ngài La-thập đến đời đệ tử của ngài có ngài Tăng Đạo và Tăng Tung. Ngài Tăng Đạo từ Quan Trung đến Nam phương Thọ Xuân quảng truyền Thành Thực, hình thành dòng truyền Nam phương Thọ Xuân. Ngài Tăng Tung cũng từ Quan Trung Bắc phương Bành Thành hoằng dương Thành Thực, hình thành dòng truyền Bắc phương Bành Thành, cả hai vị vừa truyền bá Thành Thực và vừa thuyết giảng Tam luận. Đời Lương là thời gian Tông Thành Thực đạt đến điểm cao của sự phát triển. Các vị tổ sư thường giảng kinh và luận. Khi giảng kinh các vị thường đưa tư tưởng Thành Thực luận vào, và giảng giải theo khuynh hướng giáo nghĩa Đại thừa. Do vậy khiến cho một số người nghiên cứu Thành Thực luận ngộ nhận Thành Thực thuộc Đại thừa. Và họ thường gọi các vị luận sư của Thành Thực là “Thành Luận Đại thừa sư.” Đời Lương có 3 vị Đại Pháp sư tiêu biểu cho danh xưng này. Ba vị Đại Pháp Sư là:

  1. Pháp sư Trí Tạng ở chùa Khai Thiện,
  2. Pháp sư Tăng Mân ở chùa Trang Nghiêm,
  3. Pháp sư Pháp Vân ở chùa Quang Trạch.

Ba ngôi chùa này đều thuộc Nam Lương. Và sau này người ta lấy tên 3 ngôi chùa để gọi tên các ngài như: (1) Khai Thiện Đại sư, (2) Trang Nghiêm Đại sư và (3) Quang Trạch Đại sư. Ba vị Đại Pháp sư đều tinh thông kinh, luận Đại thừa và các học thuyết A-tỳ-đàm. Như trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm của ngài Trạm Nhiên có câu nói về sự uyên thâm của 3 ngài như: “Khai Thiện dĩ Niết-bàn thắng dự, Trang Nghiêm dĩ Thập Địa, Thắng Man thiện danh, Quang Trạch dĩ Pháp Hoa độc bộ đương thời”. Câu trên là nói lên sở trường của 3 vị Đại Pháp sư. Như ngài Quang Trạch giảng thuyết kinh Pháp Hoa đương thời không ai có thể sánh bằng. Cho đến Lương Võ đế nhân hạn hán cầu mưa, Thiền sư Bảo Chí mách bảo nên thỉnh Pháp sư Quang Trạch Pháp Vân giảng kinh Pháp Hoa. Sau khi ngài giảng xong có sự cảm ứng tuyết rơi như hoa (Thiên tuyết như hoa). Như vậy chúng ta thấy được tông Thành Thực có thời cực thịnh đã chiếm được một vị thế quan trọng trong xã hội Trung quốc từ văn chương cho đến sinh hoạt hàng ngày.

(còn nữa)

Phần 2: https://khuongviet.com.vn/nghien-cuu/gioi-thieu-luan-thanh-thuc-p2-7456/02/

Bình luận
Tin cùng chuyên mục