Phật giáo Nam tông Khmer trong đời sống nhân dân miền Tây Nam bộ (Phần cuối)
PHƯƠNG ANH
Là Trường dạy nghề: Người nam xuất gia vào chùa tu không chỉ được học chữ, học giáo lý, rèn luyện đạo hạnh mà còn được học việc, học nghề để làm những công việc trong chùa và tham gia các công việc khác ngoài xã hội sau này. Theo quy định, các sư trong chùa mỗi người một việc do sãi cả sắp đặt. Đối với việc làm, sư mới vào chùa được các sư đi trước hướng dẫn việc làm và truyền dạy làm những việc thực hiện ngay ở trong chùa như xây dựng, điêu khắc, trang trí, hội hoạ…
Các sư trong chùa đều là những người có học vấn, có tri thức nên tiếp cận nhanh với kiến thức và kỹ thuật vì vậy các sư thường có được những nghề thủ công nhất định. Họ truyền dạy cho nhau, khuyến khích nhau học tập và sáng tạo. nhiều vị sư Khơ me là những nghệ nhân trong nghành điêu khắc, trang trí, hội hoạ… .Các vị sư có thời gian, có điều kiện tự thể nghiệm lao động sáng tạo của mình, bởi thế trong chùa Khơ me có nhiều hiện vật do sư tự thực hiện đạt đến trình độ tay nghề rất cao. Trong các chùa, thế hệ sư này truyền nghề cho thế hệ sư khác, chùa này học nghề của chùa khác. Vì thế mà chùa còn có vai trò quan trọng là trường dạy lao động đào tạo cho không ít nhân lực sau khi xuất sư trở thành những người lao động giỏi, tay nghề khéo ở nhiều lĩnh vực phục vụ cuộc sống của cộng đồng người Khơ me cũng như cho xã hội.

3 Chùa là trung tâm văn hoá của phum sóc của cộng đồng người Khơ me. Chùa Khơ me thường được xây dựng ở vị trí đẹp, nằm vào trung tâm phum, sóc và người Khơ me hầu như mọi lễ hội từ lễ hội dân tộc, lễ Phật giáo đều gắn bó với ngôi chùa hoặc diễn ra ở chùa do các vị sư chủ trì.
Chùa là trung tâm hội họp: Khi phum sóc có việc cần bàn hoặc có nội dung cần truyền đạt, chùa trở thành nơi tập trung bà con trong phum, sóc. Tại chùa ngoài sinh hoạt tôn giáo, các hoạt động văn hoá được diễn ra. Nhiều ngôi chùa còn tổ chức các hoạt động văn hoá dân gian, những bài ca, bài thơ giàu chất dân tộc được sáng tác do các nghệ sĩ dân gian trình bày tại những buổi sinh hoạt văn hoá ở chùa. Nhiều chùa Khơ me hiện nay còn giữ được những bộ nhạc cụ dân tộc rất độc đáo như chùa Xiêm Cán ở tỉnh Bạc Liêu.
Chùa là bảo tàng văn hoá: Kiến trúc và trang trí của chùa Khơme rất độc đáo, mỗi ngôi chùa cổ, chùa lớn là một bảo tàng về hiện vật văn hoá của người Khơ me (nhiều chùa trong chiến tranh bị tàn phá huỷ diệt, bà con mới xây dựng lại chưa đủ điều kiện để trang trí bồi đắp cho thật đẹp). Từ kiến trúc đến trang trí và tượng thờ, mỗi một hiện vật chứa đựng khả năng sáng tạo rất lớn của người sáng tác. Hiện này có 81 ngôi chùa Khơ me còn giữ được ghe ngo. Ghe ngo cũng là một hiện vật văn hoá độc đáo. Mỗi ghe ngo được làm từ nguyên một cây gỗ sao đường kính tới cả mét, dài 25 – 30m, được đục đẽo công phu, được sơn màu rực rỡ và được bảo quản cẩn thận. đua ghe ngo là hoạt động thể thao văn hoá của người Khơ me như đua thuyền của người Việt.

Trong chùa Khơ me có lưu giữ những bản kinh Phật bằng lá bối đã 2 – 3 trăm năm, cùng với những sách báo để tín đồ tu học. Hiện nay, 14 ngôi chùa đã được ngành văn hoá trang bị tủ sách thư viện phục vụ cho sư sãi và bà con có điều kiện nâng cao hưởng thụ văn hoá.
Trong vai trò văn hoá, chùa Khơ me thể hiện khá đậm nét, thể hiện rõ sức sống bền vững, truyền thống lâu đời của người Khơ me. Người Khơ me lấy ngôi chùa !àm biểu tượng tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời làm biểu tượng văn hoá của mình. Ngôi chùa là nơi tập trung cao nhất sự kết tinh văn hoá của người Khơ me.
– Chùa là “từ đường”: Chùa Khơ me được xem như là từ đường không chỉ của một dòng họ mà chung cho cả phum, sóc theo chùa. Theo phong tục, tập quán của người Khơme ở Nam bộ, người chết, sau khi hoả táng tro cốt được thân nhân đem gửi vào chùa. Yêú tố này làm cho Chùa trở thành từ đường chung cho cả phum, sóc.
Hàng năm vào ngày lễ đôn ta, ngày cúng ông bà, các gia đình có điều kiện thỉnh “ông, bà” về nhà như là về thăm lại gia đình người thân. Sau lễ lại rước lọ tro cốt lại được trả về chỗ cũ trong chùa, bởi chùa là nơi gửi gắm tro cốt của ông bà. Vì thế bất kỳ người Khơme nào, khi trưởng thành, đi đâu, ở đâu đều hướng về nơi có ông bà, cha mẹ và luôn tự coi phải có nghĩa vụ chăm sóc cho ngôi chùa. Người đi xa nhớ về ngôi chùa, không chỉ nhớ về những kỷ niệm cuộc đời đã gắn bó mà còn nhớ về nơi thiêng liêng, nơi ấy cội nguồn, nơi có cha mẹ, ông bà.
– Chùa là đơn vị kinh tế: Theo Phật giáo Nam tông của người Khơme ở Nam bộ, chùa không làm kinh tế, sư không làm ruộng để tránh sát hại côn trùng ở trong đất (sau năm 1975 sư Khơ me có tham gia làm ruộng với ý thức làm công quả chứ không phải là sản xuất tự túc lương thực như sư hệ phái Đại thừa) bởi theo luật Phật giáo nguyên thuỷ (Nam tông), sư phải dựa vào bách tính để sống. Sư không làm ruộng nhưng ruộng chùa của người Khơme ở Nam bộ có diện tích khá rộng, có chùa có tới 80 – 90 ngàn mét vuông đất. Ruộng chùa do 2 nguồn: Các gia đình giàu có hoặc gia đình không con đem ruộng cúng cho chùa và người đi tu được gia đình chia ruộng cho gửi vào chùa. Khi tu trọn đời trong chùa ruộng đó trở thành ruộng chùa.
Ruộng chùa ngoài phần làm chùa, làm sân vườn, số còn lại gần hoặc xa chùa dùng để canh tác. Ruộng chùa được các Phật tử hàng năm đến thời vụ cắt cử nhau sản xuất dưới sự điều khiển của Ban quản trị chùa. Thóc, hoa lợi thu được nhà chùa dùng phân chia lại cho các gia đình trong phum, sóc và một phần để lại trong chùa dùng cho việc cứu tế sau này. Sư trong chùa không dự trữ thóc gạo bởi đã có bách tính. Nhờ có nguồn ruộng chùa và lao động tự nguyện của tín đồ mà chùa có nguồn lương thực giúp lại các gia đình Phật tử khó khăn những khi giáp hạt.
– Chùa là đơn vị hoạt động từ thiện xã hội: Sư người Khơ me dựa vào bách tính để sống, nhưng chùa Khơ me từ xưa tới nay thường làm việc từ thiện giúp người không nơi nương tựa, giúp trẻ em mồ côi không người nuôi dưỡng.
– Vai trò của Phật giáo Nam tông với việc quản lý xã hội (cộng đồng phum, sóc). Người Khơ me Nam bộ từ xa xưa cho đến nay luôn sống trong đơn vị cư trú của mình là phum, sóc. Qua những tháng năm khai phá, khẩn hoang và định cư ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bào Khơ me đã dựng nên những phum, sóc là những tổ chức xã hội truyền thống.
Phum – là đơn vị cư trú của người Khơ me bao gồm một gia đình của ông bà, cha mẹ và bao quanh là những gia đình của con, cháu và của họ hàng thân thuộc. Không thể tách rời với sự vận động phát triển của quy luật tự nhiên, phum không thể đóng kín theo đơn vị huyết thống mà đã được mở rộng hơn cho những gia đình ở nơi khác đến mặc dù không có họ hàng thân thích với những gia đình trong phum. Mỗi phum đều có một tên gọi nhất định để xác định vị trí của phum và phân biệt với các phum khác và thường mang tên những người sáng lập hoặc đứng đầu phum.

Sóc – là một địa vực cư trú của người Khơ me tương tự như các làng của người Việt, các buôn, plei của một số dân tộc trong vùng Tây Nguyên. Mỗi sóc có thể có nhiều phum hoặc chỉ có một phum, đó là những phum lớn. Giới hạn của các sóc thường là những luỹ tre kín bao bọc, hay nằm trọn trên một con dẫy, hoặc một đoạn nào đó. Giữa sóc có một con đường lớn là đường chính của sóc. Nhà cửa của người Khơ me trải dàn hai bên đường chính đó.
Công việc quản lý được đặt ra ngay sau khi có sự phân lập, tạo sinh một cá thể, một tập thể, một tổ chức, một đơn vị hành chính. Việc quản lý và mối quan hệ quản lý giưã các tổ chức trong một đơn vị hành chính mang đậm tính đặc thù với chức năng hoạt động của nó. Việc quản lý phum, thông thường do một Mê phum đứng ra coi sóc mọi việc chung. Mê phum là người lớn tuổi có uy tín, và thường là đứng đầu dòng họ của các gia đình trong phum. Những Mê phum chịu trách nhiệm đại diện cho các thành viên trong phum trong mọi mối quan hệ bên trong và bên ngoài phum. Các Mê phum còn có nhiệm vụ chăm lo, giúp đỡ cho các gia đình trong phum khi gặp những khó khăn trắc trở, chịu trách nhiệm tổ chức lễ nghi chung cho toàn phum.

Việc quản lý sóc, được giao cho một số người mà đứng đầu là Mé srok- tức chủ sóc. Ban quản trị srok do sự tín nhiệm của các thành viên trong sóc cử ra, và Mé srok thường là người lớn tuổi, có văn hoá, hiểu biết phong tục truyền thống và có nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Mé srok cùng với ban quản trị sóc thay mặt cho các thành viên trong sóc – những con sóc – lo mọi việc quan hệ bên trong, bên ngoài sóc, giữa con sóc và các cấp chính quyền, giữa con sóc và nhà chùa của sóc…
Phật giáo Nam tông của người Khơ me Nam bộ có hệ thống tổ chức 4 cấp, bao gồm: Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Các cấp đều hoạt động về tôn giáo, quan hệ với các đạo khác, riêng quan hệ với các cấp chính quyền (cùng hoặc trên cấp) cũng chủ yếu là giải quyết các công việc đạo sự. Chỉ riêng có một số chức sắc là tham gia vào các Ban Chấp hành các đoàn thể, mặt trận. Việc tham gia quản lý phum, sóc cơ bản ở cấp xã là do các chùa.
Thông thường mỗi sóc có một (hoặc hai) ngôi chùa, đó là tụ điểm sinh hoạt của nhân dân toàn sóc trong các ngày lễ hội truyền thống và hành lễ Phật giáo. Chùa chính là nơi tiêu biểu cho bộ mặt phum, sóc, là trung tâm tôn giáo, chính trị, văn hoá, xã hội của phum, sóc. Có thể nói đạo Phật giáo Nam tông đã chi phối sâu sắc xã hội nông thôn của Khơ me vùng đồng bằng sông cửu Long.
Mối quan hệ giữa chính quyền hành chính, nhà chùa, sóc, phum thường do các mê phum, mé sóc, sãi cả hoặc nhom wath đứng đầu ban quản trị chùa trực tiếp bàn bạc về các công việc có liên quan giữa các bên, và về những hoạt động tín ngưỡng của nhà chùa, của nhân dân phum, sóc.
Chính quyền địa phương ở nhiều tỉnh, nhất là tỉnh Sóc Trăng – thống nhất với nhà chùa tiến hành tổ chức đại hội sư sãi a-cha để đề ra một số quy ước về phong tục, tập quán và lễ hội của dân tộc, cũng là nhằm bảo đảm việc quản lý địa bàn thực hiện tốt an ninh trật tự trong chùa, phum, sóc.
Ngoài ra, nhà chùa đã tích cực tham gia, động viên các con sóc – Phật tử cùng tham gia những công tác phúc lợi xã hội như: Xây dựng trường, lớp học, bắc cầu, đắp đường phục vụ lợi ích dân sinh và phát triển sản xuất. Đặc biệt một số chùa có điều kiện sản xuất (có đất, mặt nước) đều tranh thủ tham gia và cùng các phật tử lao động tạo ra của cải góp phần tự túc một phần lương thực và tích luỹ xây dựng chùa.
Phật giáo Nam tông Khơ me là một tổ chức tôn giáo – cũng là một tổ chức thành viên trong địa bàn dân cư đã thể hiện rõ được vai trò trong việc quản lý cộng đồng phum, sóc. Là một tôn giáo, Phật giáo Nam tông Khơ me không công nhận thượng đế, thần linh, thực sự đề cao vai trò con người với triết lý sống “từ, bi, hỷ, xả – vô ngã vị tha”, luôn tôn trọng sự bình đẳng, tự do, bác ái và trên thực tế cuộc sống xã hội – Phật giáo Nam tông Khơ me đã dần dần khẳng định vị trí độc tôn, chủ đạo về tín ngưỡng tôn giáo, chi phối đời sống tinh thần – xã hội của cộng đồng người Khơ me ở đồng bằng sông Cửu Long.Nó thực sự là trung tâm hoạt động tôn giáo, xã hội của phum, sóc. Vai trò của sư sãi trong xã hội,trong giáo dục đào tạo, trong đời sống… luôn giữ một vị trí quan trọng trong đời sống người dân miền Tây Nam bộ mà không có một tôn giáo nào chi phối được – chùa luôn là trung tâm (nhiều mặt) trong cộng đồng phum, sóc, tất cả những vấn đề đó đều đã được đồng bào Phật tử người Khơ me chấp nhận, tuân theo với cả tâm nguyện của mình.