Những điều ít biết về ngôi chùa linh thiêng Trấn Quốc
Chùa Trấn Quốc là một di tích danh thắng của Thủ đô nói riêng và của cả nước nói chung. Đây là một ngôi chùa cổ nhất tại Hà nội. Chùa được xây dựng từ giữa thế kỷ VI, thời Tiền Lý Nam Đế, tức Lý Bôn, khoảng năm (541-548). Trên một dải đất gọi là “Cá vàng” có diện tích khoảng 4000m2. Dải đất “Cá vàng” tọa lạc tại mặt Hồ Tây, đây là một hồ có diện tích lớn nhất của Thủ đô và được coi là lá phổi của Hà Nội.
Theo sử sách cũng như các nhà nghiên cứu về văn hóa cho biết, chùa lúc đầu do vị Lý Phật Tử khi chưa làm vua Hậu Lý Nam Đế khởi nghiệp và ở ngôi. Lúc đầu chùa có tên là Khai Quốc, đến năm Lê Đại Bảo (1440 – Lê Thái Tôn), đổi hiệu chùa là An Quốc. Từ thời đố trở về trước ngôi chùa vẫn nguyên vị ở bãi sông Hồng tại phía Đông Bắc phường Yên Phụ ngày nay. Đến đời hậu Lê Kính Tôn, niên hiệu Hoàng Định năm thứ 16 (Bính Thìn – 1616), thấy ở đây thường hay bị lở vì nước sông hàng năm lên cao, nên nhân dân đã chuyển chùa vào bãi “Cá vàng” này. Năm Lê Vĩnh Tộ thứ 6 (1624 – Lê Thần Tôn) và năm Dương Hòa thứ 5 (1639 – Lê Thần Tôn), dân sở tại kiến thiết tòa Tam Bảo, hai dãy hành lang và nhà Tổ rất nguy nga tráng lệ. Theo sách báo lưu truyền thì ngôi Tam Quan của chùa là do chúa Trịnh (Thanh đô vương Trịnh Tráng) xây dựng cùng vào năm đó.
Sở dĩ có tên là chùa Trấn Quốc, vì dải đất này đời Lý (1010 – 1225) đã dựng cung Thúy Hoa, đời Trần (1225 – 1400) đổi thành điện Hàm Nguyên. Thời Lê – Trịnh cũng đặt hành cung tại đây. Khi ấy cung điện của Lý – Trần đã đổ nát, nhân dân liền dựng lại ngôi chùa, lên nền đất cũ đó gọi là chùa Trấn Quốc (Theo Thăng Long cổ tích, Tuyển tập văn hóa Hà Nội).Kế tiếp lại đắp con đường nối liền từ đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) vào chùa năm 1620.
Thời nhà Lý, Phật giáo là quốc đạo các vị vua đều tin theo đạo Phật. Bà Nguyên phi Ỷ Lan thái hậu, thân mẫu vua Lý Nhân Tông thường lui tới cảnh chùa đàm đạo như: Ngày rằm tháng hai năm Hội Phong thứ 5 (1096) bà đã mở tiệc cỗ chay rất lớn tại chùa, thiết đãi các sư và hỏi nguyên lai đạo Phật truyền bá đến Việt Nam ta. Những vị cao tăng và danh nhân thời xưa đã ở tại đây như: Đức Vân Phong pháp sư (đời thứ 3 dòng Vô Ngôn Thông); Khuông Việt Thái Sư Ngô Chân Lưu, Thảo Đường (người khai sáng ra thiền phái Thảo Đường một trong những dòng thiền lớn tại Việt Nam); Thông Biện; Viên Học; Tịnh Không; Trần Tú Uyên… và nhiều bậc Cao Tăng thụ giáo và trụ trì chùa này.

Năm 580 vị Phạm Tăng Tỳ-ni–đa–lưu–chi từ Ấn Độ qua đây, rồi mới đến trụ trì chùa Pháp Vân.
Chùa Trấn Quốc lại là nơi chốn tổ của một chi sơn môn trong phái thiền Tào Động truyền ở Việt Nam đời Hậu Lê do vị Thiền sư Tịnh TRí Giác Quan khai hóa, lần lượt qua 13 đời Tổ sư truyền đăng. Hiện pháp của các vị Tổ sư vẫn còn lưu giữ tại chùa.
Cổng chùa có đôi câu đối Nôm:
Vang tai xe ngựa qua đường tục
Mở mặt non sông tới cửa thiền
Gặp nạn binh hỏa cuối thế kỷ 18, chùa đã từng biij hoang phế, sau được nhân dân và Hòa thượng Khoan Nhân phát tâm trùng tu. Đầu đời nhà Nguyễn chùa lại được trùng tu, đúc chuông, tạc tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa cúng dàng 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị tuần du ra Bắc, cũng cúng dàng một đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, đổi hiệu chùa là Trấn Bắc nhưng nhân dân vẫn thường gọi là Trấn Quốc.
Hai cột trụ cửa chùa có câu đối Nôm:
Trải bao phen gió Á mưa Âu, trơ đá vững đồng, chót vót cột trời chùa Trấn Quốc.
Riêng một thú hoa Đàm đuốc Tuệ, sớm chuông chiều trống, thênh thang cửa Phật cảnh Tây Hồ.
Trải bao cuộc biến đổi thời gian, cũng như các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ nhưng chùa cảnh vẫn còn nguyên vẹn. Trong chùa hiện tại còn lưu giữ 14 tấm bia, như tấm bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng chùa vào năm 1639 về công việc đóng góp, chùa sau một thời gian dài đổ nát, công việc này bắt đầu năm 1813 và kết thúc vào năm 1815. Ngoài những tấm bia chùa còn lưu giữ được nhiều tượng cổ bằng đồng và gỗ quý như: pho tượng đức Phật nhập Niết-bàn bằng gỗ thếp vàng lộng lẫy, một kiệt tác của nền nghệ thuật tạc tượng Việt Nam.

Năm 1959, Tổng thống Ấn Độ Pờ-ra-sát tặng cây bồ đề, lấy ở cây mà trước đây gần 26 thế kỷ đức Phật Thích Ca ngồi tu thành đạo trông kỷ niệm tại sân trước chùa.
Năm 1983 cố Hòa thượng Kim Cương Tử về trụ trì, Hòa Thượng đã trùng tu nhiều hạng mục của chùa như Tam Bảo, nhà thờ Tổ, gác chuông, đặc biệt, Hòa thượng xây ngôi Bảo tháp Lục Độ Đài Sen để xứng với cây Bồ Đề trước cửa chùa.
Thời Pháp thuộc, chùa đã được Viện Bác Cổ xếp hạng là một trong 10 ngôi chùa danh thắng ở xứ Đông Dương. Đến chế độ ta Nhà nước lại xếp hạng bảo tồn là di tích Quốc gia ngay đợt I (loại A) năm 1962.
Chùa Trấn Quốc là một di tích danh thắng đã có nhiều bài thơ ca ngợi vẻ đẹp như cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ khi đến vãn cảnh chùa đã cảm hứng viết:
Trấn Quốc sơn môn thần
Kim cương bất hoại thân
Giới châu hồ thượng nguyệt
Thiên cổ nhật nhật tân
Nhà thơ Tống Hồ Cầm đã dịch:
Thần chùa Trấn Quốc oai cường
Chân thân bất hoại Kim Cương độ đời!
Hồ trăng giới ngọc ánh ngời
Thiên thu biến hóa mỗi thời mỗi tân!

Bà Huyện Thanh Quan tức Nguyễn Thị Hinh có tứ thơ hoài cảm hành cung Trấn Bắc của tiền triều:
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Khách qua đường dễ chạnh niềm đau
Mấy rò sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu!
Cụ Bùi Đức Đằng họa vần thơ của bà Huyện Thanh Quan khi cụ đến thăm chùa như sau:
Trấn Quốc ngày nay dạ chẳng rầu
Mang tầm thế kỷ hết thương đau
Tây Hồ đổi mới bao phong cảnh
Cổ sái thêm tôn những lệ chầu.
Đường rộng dân qua vui mắt ngắm,
Chuông rền, mõ rộng, đẹp lòng mau,
Thiền sư danh thắng hòa non nước,
Khí thế trang nghiêm vẫn trấn đầu
Cố Hòa Thượng Kim Cương Tử cũng có bài thơ bái vịnh lịch sử rằng:
Trấn Quốc danh lam thắng cảnh thiền,
Tây Hồ biệt chiếm nhất tâm tuyền.
Kim ngư chử thượng thông hà nhị,
Cổ tự tùng trung thực phúc duyên,
Tiền Lý triệu khai tân Phạm sát,
Hậu Lê bổ xứ cựu Tăng viên.
Bồ đề trạn thử minh chân giáo
Tiêu biểu Việt Nam lịch sử truyền
Dịch:
Cảnh chùa Trấn Quốc danh lam,
Hồ Tây đệ nhất trời Nam lâm toàn.
Cá vàng đón khách tham quan
Cửa thiền mở rộng hơn ngàn thu đông,
Lý xưa dựng bến sông Hồng
Hậu Lê Hoằng Định chuyển trong hồ này.
Bồ đề chân giáo là đây
Việt Nam lịch sử dấu hay đời đời.
Trấn Quốc, chốn của Thiền từ bi nay đã làm xao xuyến nhân tâm bao khách thập phương trong Nam ngoài Bắc và người nướ ngoài. Hằng ngày có hàng trăm người đến vãn cảnh chùa, hay hành hương lễ bái để nhận ở nơi đây thêm một tình cảm cao đẹp, một tuệ minh của Đức Phật.
Trấn Quốc ngàn xưa lừng thế giới
Danh lam muôn thuở, rạng non sông…

(Hòa thượng Thích Thanh Nhã)