Tấm lòng người Thuận Hóa với Điều Ngự Giác Hoàng

Điều Ngự Giác Hoàng là danh xưng cao quý của vua Trần Nhân Tông lúc sinh tiền. Theo Phật giáo sử, Thượng Hoàng xuất gia hai lần: lần đầu 1294, lần thứ hai năm 1299. Quốc sử cho biết Ngài đã xuất gia 8 năm (1299 – 1308) sau 5 năm ở ngôi vị Thái Thượng hoàng, 14 năm giữ cương vị Thiên tử.

Truyền thống dân tộc Việt Nam chúng ta “Uống nước nhớ nguồn”. Vậy tấm lòng của cư dân Thuận Hóa đối với Điều Ngự Giác Hoàng – người có công lớn lao trong việc mở mang bờ cõi nước Đại Việt mà cụ thể là vùng đất Ô, Lý ngày xưa, nay là đất Thuận Hóa (bao gồm 5 tỉnh thành từ Quảng Bình đến phần đất bờ bắc sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam) đối với vua Trần Nhân Tông như thế nào?

Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta thử xem cư dân Thuận Hóa kể từ các năm 1069, 1037 đến nay là ai? Để biết tiền nhân chúng ta, họ là ai?

Chúng tôi xin trình bày những cuộc di dân chủ yếu của dân tộc Việt Nam từ châu thổ sông Hồng, vùng hai châu Hoan, Ái vào miền đất Thuận Hóa khai hoang lập ấp.

Tiền nhân ta ấy, họ là người Việt, người Chiêm xin ở lại, dân tộc ít người ở miền núi, người nhà Tống xin tỵ nạn vì không chịu khuất phục nhà Nguyên, người nhà Minh không thể sống chung dưới sự cai trị của nhà Thanh. Đó là người Hoa, người được nhập Việt tịch lập thành các làng Minh Hương, thành phường bang ở vùng đô thị, cửa khẩu. Suốt quá trình từ non 700 năm đến gần 1000 năm, tất cả các cư dân hợp thành cộng đồng người Việt Nam đoàn kết, bất khuất, độc lập, sáng tạo để biến một vùng đất rộng bao la ngút ngàn ở miền trung Trung bộ, phía tây giáp Trường Sơn và phí Đông biển cả Thái Bình Dương bao gồm nhiều quần thể hải đảo lớn nhỏ thành vùng đất trù phú, sản sinh ra lắm anh tài.

Chùa Diệu Đế – Thừa Thiên Huế

Chúng ta dễ dàng nhận biết ra điều này, gốc tích này nhờ đọc lại gia phả các dòng tộc họ hàng nội ngoại, địa bạ các làng xã hoặc hương ước, bia mộ của các vị khai canh, khai khẩn ra các làng xã, thôn ấp, phường bạn, bang hội của người Việt gốc Hoa, hoặc ký sự của các du khách, thương nhân nước ngoài đến nước ta kinh doanh.

Đất Thuận Hóa hình thành trải qua 4 cuộc di dân lớn vào đời nhà Trần, đời nhà Hồ, đời Lê Thánh Tông, đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Ngoài ra phải kể đến những cuộc di dân tự do, tị nạn xin nhập cư vì khác chính kiến từ xứ Đàng Ngoài vào xứ Đàng Trong. Đào Duy Từ là một điển hình trong nhiều người kỳ tài đã rũ áo ra đi từ xứ Đàng Ngoài vào Nam lánh nạn rồi trở thành bậc khai quốc công thần.

Chúng ta thử lắng đọng tâm tư tìm về ý nghĩa thiêng liêng và cao quý của nhóm từ hoặc thuật ngữ quen thuộc mà thâm sâu này vốn khá thịnh hành ở chốn Kinh sư – Thiền kinh Phú Xuân – Huế: Đó là “Điều Ngự Giác Hoàng”.

Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật được nhân loại tôn vinh, tôn phong là Đức Điều Ngự, duy chỉ trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, vua Phật Trần Nhân Tông được vinh danh tôn phong là Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông hoặc Điều Ngự kèm tên gọi miếu hiệu của vị vua thứ 3 triều đại nhà Trần. Triều đại này hưng thịnh nhờ lấy đạo Phật làm quốc giáo, tiếp nối thời Đinh – Lê – Lý kéo dài xuyên suốt từ năm Mậu Thìn, 968 đến cuối đời nhà Trần.

Theo Trung – Anh Phật học từ điển (chữ Tàu) thông dụng mà rất chuyên sâu được giới nghiên cứu Phật học đất “Mặt trời mọc” biên soạn, ấn hành tại Nhật Bản và Đài Loan nhiều lần từ năm 1904 cho đến nay.

Điều (chữ Tàu): To harmonize: điều hòa, to control: kiểm soát. Các từ đôi Điều phục: đặt dưới sự kiểm soát; Điều độ: sắp đặt lại cho có trật tự, có hệ thống.

Ngự (chữ Tàu): thuộc về đức Phật, nhà vua, nhà chúa. Đức Phật là Điều ngự sư, Thiên nhân sư. Thi văn của nhà vua là Ngự chế thi. Điều Ngự gốc tiếng Pali là Parusa-damya-Sârathi.

Điều ngự (chữ Tàu) nghĩa là “huấn luyện và điều phục như cách thuần hóa voi dữ hoặc ngựa hoang, khác nào Đức Phật đã chế ngự, kềm chế được dục vọng con người đặt dưới sự nhiếp hóa của Ngài vậy”.

(To tameand control as a matter does a wild elephant or horse, as the Buddha brings the passions of men under Parasa-damya-Sârathi)[1].

Giác Hoàng (chữ Tàu) cũng là ông vua tu đạt chứng quả tức vua Phật. Là bậc chí tôn thiên tử mà phước đức cho bản thân nhà vua biết tu (sửa mình) cho độ chứng ngộ mới mong thành chánh quả (giác ngộ) thì mới được tôn vinh là Giác Hoàng. Thì ra, “tự thiên tử chí ư thứ dân” mà có tu, biết tu đều trở thành hành giả và chóng vánh trở thành Phật: chúng sanh là Phật sẽ thành. Đơn giản thế thôi.

Mười danh hiệu cao quý dành để tôn vinh đức Phật là:

  1. Như lai chữ Tàu (Thatàgata)
  2. Ứng cúng chữ Tàu (Arhat)
  3. Chánh biến tri chữ Tàu (Samyak – Samddha)
  4. Minh hạnh túc chữ Tàu (Vidyãcaran – sampanna)
  5. Thiện thệ chữ Tàu (Sugata)
  6. Thế gian giải chữ Tàu (Lokavid)
  7. Vô thượng sĩ chữ Tàu (Amuttaro)
  8. Điều Ngự trượng phu chữ Tàu (Purasa damya – sàrathi)
  9. Thiên nhơn sư chữ Tàu (Sãstã devamanus yànăm)
  10. Phật Thế Tôn chữ Tàu (Buddha Lokanàtha or Bhagvàn)

Phật không ở đâu xa, Phật ở trong lòng như ý nghĩa hai câu liễn do vua Minh Mạng sáng tác còn được khắc ghi treo ở trước chánh điện Thánh Duyên quốc tự nằm soi bóng bên cửa biển Tư Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế mà dân gian quen gọi là chùa Túy Vân, chùa Túy Ba mà thật ra gọi cho chuẩn là Thúy Vân.2

Bốn chữ đúc Điều Ngự Giác Hoàng đã biểu hiện được cốt tủy của đạo Phật qua tài năng sáng tạo và tu tập của vua Minh Mạng.

chữ Tàu

Phật tức tâm cảm phát thời hà tất chân Linh Sơn Thứu Lãnh

Không diệc sắc phồn hoa xứ khởi bất thị Lộc Uyển Kỳ Viên

Hạnh Nguyên dịch là:

Cảm được Phật là Tâm, Tâm là Phật cần chi đến núi Linh Sơn

Thấy hoa Không là Sắc, Sắc là Không hà gì tới vườn Lộc Uyển

Danh hiệu thứ tám của Thập hiệu Tôn Phật, Điều Ngự trượng phu đồng nghĩa với danh hiệu Điều Ngự Giác Hoàng.3

Trong ý nghĩa uyên áo của danh hiệu Phật, nhiều ngôi phạm vũ trên đất Hóa Châu đã tồn tại cho đến hôm nay được tôn phong là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia của tỉnh Thừa Thiên Huế, gồm các ngôi Quốc tự cổ kính như Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế hoặc chùa quan vừa là Tổ Đình như Báo Quốc, Quốc Ân…

Cảnh chùa Giác Hoàng được vẽ và in trong tập Ngự đề đồ hội thi tập (Dẫn từ Website Trung tâm BTDTCĐ Huế)

Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán hai triều Tự Đức (trước 1875) và triều Duy Tân (năm 1910) biên soạn đều viết về chùa Giác Hoàng (niên  hiệu Tự Đức), chùa Hoàng Giác (niên hiệu Duy Tân).4 Xin trích dẫn bản triều Duy Tân, cách đây gần 1000 năm.

Chùa Hoàng Giác

Chữ tàu

“Ở xã Hiền Sĩ huyện Phong Điền… Xưa có nhà chùa, thường có linh ứng sau bỏ hư. Đời Hiển Tôn năm Tân Sửu thứ 30 (1721), vua khiến theo nền cũ làm lại, đặt tên chùa Hoàng Giác, có chế biển vàng ban cho, nay vẫn còn một tấm khắc năm chữ Ngự Kiến Hoàng Giác Tư Chữ tàu; một tấm khắc ba chữ: Kế Thánh Đường Chữ tàu; một tấm khắc hai chữ: Cổ Lâu Chữ tàu phía tả khắc tám chữ: Quốc Chúa Thiên Túng Đạo Nhân Ngự Đề Chữ tàu.”

Người dịch ghi Quốc chủ là không đúng, phải dịch là Quốc Chúa.

Thiên Túng Đạo Nhân tức là Pháp hiệu của chú Nguyễn Phúc Chu khi Ngài băng hà được tôn phong Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu. Chúa có 34 năm cầm quyền và đã có công lớn trong việc trùng tu chùa Hoàng Giác.

Thủ phủ của xứ Thuận Hóa cai quan hai phủ Tân Bình và Triệu Phong, có hai ngôi quốc tự gợi nhớ, gợi thương một thời và cả hôm nay nữa.

  1. Giác Hoàng Phạm Vũ trong Hoàng Thành – Huế do vua Minh Mạng dựng lập năm Kỷ Hợi 1829.
  2. Tháp Điều Ngự phía sau đồi cao của đồi Thúy Vân, nơi trùng kiến Quốc tự Thánh Duyên dưới triều vua Minh Mạng vào năm thứ 17, 1836.

Ngày nay Hòa thượng Thích Thanh Từ mới khai sơn thêm chùa Trúc Lâm Bạch Mã ở huyện Phú Lộc, khánh thành năm 2008.

Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã – Huế

Đó là những ngôi quốc tự cổ kính, những ngôi chùa cổ và mới được tôn tạo và dựng lập để ghi nhớ công đức cao dày như trời bể của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Sơ Tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mà dân gian tỉnh lược tôn phong là Điều Ngự hoặc Giác Hoàng, thậm chí là Hoàng Giác cho dễ nhớ.

Tiếc thay gần đây ở một số vùng miền của xứ Thuận Hóa xưa, do điều kiện nhận thức hạn hữu, vì sách vở chữ Nho thất tán, giới thanh niên, kể cả Phật tử ít biết đến các danh xưng Trúc Lâm, Yên Tử mà danh thần Nguyễn Trãi rất quan tâm đến Thuận Hóa lúc viết Dư địa chí năm 1438.5

Khi leo đỉnh cao ngọn Hoa Yên vào tuổi “tri thiên mệnh” nhìn về phương Nam Tổ quốc, thi hào Ức Trai đã cảm xúc viết:

Nhân miếu dương niên di tích tại

Bạch hào quang ý đổ trùng đồng.

Nghĩa là:

Dấu cũ Nhân Tôn còn vẫn đấy

Trùng đồng thấy giữa áng quang minh

Trời trong mấy tạnh, nhờ áng quang minh ấy đã làm sáng tỏ nhận thức cho hậu duệ ngày nay vượt qua bức màn vô minh để thấy rõ cội nguồn uyên nguyên của dân tộc.

Thế gian sinh tử là lẽ thường. Lúc sắp lìa trần trả tấm thân tứ đại trở về với cát bụi, thi bá Tùng Thiện Vường nằm dài đã huơ tay viết bóng lên không bài Tuyệt bút từ. 6

Chữ tàu

Bán sinh học đạo thái hồ đồ

Thoát tỷ như kim nãi thức đồ

Tiến Sảng đình ba Thiên Mụ nguyệt

Thủy hương lâm ảnh hữu nhân vô.

Nhà thơ Hạnh Nguyên dịch

Nửa đời học đạo có ra răng

Chết sống giờ đây rõ thiệt căn

Tiến Sảng sóng triều trăng Đỉnh Mụ

Bóng rừng thơm nước có chơn tăng.

Cụ Phan Bội Châu chào đời năm 1867 thì 3 năm sau 1870 thi bá Tùng Thiện Vương ra đi chầu tiên vương. Nhà thơ Sào Nam lớn lên viết Quốc sử bình diễn ca bằng chữ Hán, rồi đích thân mình diễn nôm. Ông Già Bến Ngự đã thấy rõ cái họa mất nước và tưởng nhớ đến Điều Ngự Giác Hoàng lúc còn ở ngôi Thiên Tử trực tiếp chỉ huy mặt trận phía Nam nước Đại Việt:

Hớt Tất Liệt là thằng tham bạo

Vừa đời Trần này dạo Nhân Tôn

Bao nhiêu những nước cỏn con.

Liệt đều nuốt sạch, nay dồn đến ta.

Cuối cùng, kết thúc cuộc chiến, quân dân nước Đại Việt đã chiến thắng đội quân Nguyên Mông hung hãn nhất thế giới:

Chữ tàu

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện kim âu

Truyền thông giữ nước ấy đã truyền lửa cho đời sau từ trên đất am Tri Kiến thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay.

AM TRI KIẾN: Viết theo cách chữ Hán là Chữ tàu. Nhưng không hiểu sao và vì sao mà một người nào đó ở trường Viễn Đông Bác Cổ của Hà Nội đã “tùy nghi” và “tự tiện” chữa lại chữ Kiến (Chữ tàu) có nghĩa là “xây dựng, dựng lập” ở phần chữ Hán của sách Ô Châu cận lục, trang 45a, ký hiệu của thư viện Hán Nôm A.2637.

Chữ tàu

Người ta ngang nhiên sửa bằng cách viết chữ Kiến (Chữ tàu) treo cao phía bên phải sách Ô Châu cận lục chữ Kiến (Chữ tàu) đồng âm8. Am Tri Kiến là cứ điểm lịch sử, là cửa ngõ nhìn về phương nam của vua Trần Nhân Tông trước khi du lịch nước Chiêm Thành trong 8 tháng vào năm Tân Sửu 1301 với tư cách một Thiền sư.

Việc làm tùy tiền này khiến các tác giả ở Viện Hán Nôm phải lên tiếng trong “Lời giới thiệu”, ở trang 7:

Điều này không thống nhất với cách làm thận trọng, khoa học hơn của Nguyễn Hàm Chuẩn thể hiện qua phần “khảo chính biên” là giữ nguyên chính văn, đưa dị văn vào một phần riêng kèm theo ở cuối, chứng tỏ chúng không phải những khảo chính của Nguyễn Hàm Chuẩn” 9.

Theo chúng tôi biết, có am Tri Kiến, thôn hoặc làng Tri Kiến, lại có huyện Tri Kiến (có từ năm 1402 đến năm 1469). Điều này kéo theo nhiều người nghiên cứu về Điều Ngự Giác Hoàng nhầm lẫn, suy diễn nhiều hơn là đi vào thực tế sử sách và thực địa để đối chiếu mà suy xét10.

Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong bài biên khảo “Am Tri Kiến” đầy đủ  hơn để thể hiện một nén hương lòng cúng dường lên Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhân ngày húy kỵ thứ 700 của Ngài và các năm sau.

Tấm lòng của cư dân Thuận Hóa thể hiện rõ nét nhất qua các bào “Nước non ngàn dặm ra đi” bằng thể Nam ai, Nam bình… của Võ Chuẩn, nguyên Tổng đốc tỉnh Quảng Nam mà hầu như cư dân Thuận Hóa ai cũng hát được trọng bài hoặc vài câu tiêu sầu dù họ là giới lao động nông thôn hoặc thị thành. Còn việc lập chùa, lập miếu, lập đền thờ 3 vua Trần: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông tại Lịch đại đế vương miếu vào năm Minh Mạng thứ 4 (1823) ở xã Dương Xuân, phía Nam ngoài kinh thành, xây mặt hướng Nam. Gian Tả Nhị thờ Trần Nhân Tông hoàng đế, Anh Tông hoàng đế. Nhà vua lại sai chế bài vị và đồ thờ, chọn lấy 20 người dân làng Phú Xuân canh tác ruộng vương được triều đình cấp để lấy hoa lợi lo việc cúng tế. Họ lọ việc gìn giữ, quét dọn, hương khói quanh năm. Và hằng năm cứ hai tháng trọng Xuân trọng Thu sai hoàng tử đến tế.

Tiếc thay! Đến miếu Lịch đại đế vương đã tàn tạ! Vì thời gian, chiến tranh và con người xâm hại, chiếm dụng làm nơi ở, trái nghịch với chức năng thờ phụng nhiệm mầu các vua chúa và danh thần võ tướng nước ta từ thuở vua Hùng dựng nước cho đến đầu đời nhà Nguyễn.

Ngày nay, cụ thể hơn việc lập các Thiền viện Trúc Lâm, điện thờ Huyền Trân Công Chúa ở núi Ngũ Phong, phường An Tây thành phố Huế là việc làm rất có ý nghĩa thể hiện tinh thần “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và còn tỏ lòng dạ biết sám hối trước anh linh 3 vua Trần và công chúa Huyền Trân.

Lời kết trong bài thơ Điện các Huyền Trân của nhà thơ Nguyên Hạnh ghi vào sổ lưu niệm tại đền thờ ngày nay năm 2007 đã thể hiện niềm tự hào và lòng mong mỏi của người dân Thuận Hóa:

Thành tâm hun đúc hồn dân tộc

Hòa hợp muôn dân giống lạc Hồng

“Hòa hợp muôn dân” là ý nguyện của các bậc tiền bối, trong đó có Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.

Sắp tới, Thành phố Huế hân hoan mừng ngày khánh thành đền thờ vua Trần Nhân Tông nằm phía sau điện thờ Huyền Trân thuộc quần thể di tích trải rộng 28 hecta ở núi Ngũ Phong, hình dài như con Rồng kéo từ điện thờ đến tận bờ sông Hương thơ mộng đã chứng kiến bao nỗi thăng trầm của lịch sử mà UNESCO đang nhắm tới trong tầm mắt thừa nhận “Sông Hương là di sản thiên nhiên thế giới” khác nào vịnh Hạ Ling thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay:

Bắc Nam hoan hỷ nối vòng tay lớn thân thương.

Cố đô, ngày 26-10-2008

Chú thích và chú giải:

1 Dictionary of Chinese Buddhist terms ấn hành lần đầu năm 1904 tại Nhật Bản, tr.444.

2 Thúy Vân Sơn. Thúy là chim chã, loài chim quý ở miền biển, bay về đậu trên am Mỹ Sơn ở núi Thúy Vân ngày nay. Trước thời vua minh mạng trùng kiến đã có am chùa, đối chênh là núi Linh Thái ở sat bờ biển có ngôi cổ tự ở chân núi Hải Triều Âm.

3 Trượng phu đứng riêng lẽ không thể có nghĩa như Giác Hoàng. Trượng phu phải đi liền sau Điều Ngự mới có nghĩa như danh hiệu tôn quý thứ 8 của 10 Phật hiệu.

4 Đại nam Nhất Thống Chí, tập I, Quốc Sử Quán, viện Sử học dịch, nxb Thuận Hóa, Huế, 1992, tr.205-206.

Đại Nam Nhất Thống Chí, Thừa Thiên Phủ (Tập Thượng), Quốc sử Quán, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Sài Gòn, 1961, tr.92.

Thiên túng Đạo Nhân là pháp hiệu của Bồ tát Nguyễn Phúc Chu giữ vai trò quốc chúa.

5 Nguyễn Trãi Toàn Tập, viện Hán Nôm, Hà Nội, 1976, tr.320-321.

6 Tùng Thiện Vương, Nguyễn Phúc Ưng Trình, Bửu Dưỡng, Sài Gòn, 1970, tr.153.

7 và 8 Xem Dương Văn An, Ô Châu Cận Lục, Viện Nghiên cứu Hán nôm, nxb Khoa học xã hội, Hà nội, 1997. tr.7 và phần chữ Hán tr. 45a.

9 và 10 Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh Sử, tu Trai Nguyễn Tạo dịch, 1960, Sài Gòn, tr. 34-35.

10 Đại Nam Thực Lục, Tập II, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2004, tr. 269-270.

  Ban Hoằng pháp GHPG Thừa Thiên Huế (Trích đăng từ Tạp chí Khuông Việt số 4)

Bình luận
Tin cùng chuyên mục