Nguyên lý duyên sinh vô ngã là cội rễ của một nền kinh tế
Một nền kinh tế muốn phát triển được bền vững và lâu dài, theo quan điểm của Phật giáo là người làm kinh tế cần phát huy trí tuệ để nhìn nhận bản chất của mọi sự vật hiện tượng theo nguyên lý duyên sinh vô ngã từ đó không bị lòng tham và sự mê mờ dẫn dắt đi vào con đường sai lạc, mê lầm.
Đức Phật không phải nhà kinh tế, lời dạy của Ngài không phải là môn kinh tế học nhưng các đề cập của đức Phật trong kinh tế từ góc độ đạo đức, pháp lý và xã hội theo đó kinh tế được diễn ra là điều mà chúng ta không thể nào phủ định được. Các chỉ dẫn của đức Phật về kinh tế dưới góc độ đạo đức và luật pháp đã tạo ra các cơ sở dữ liệu rất có ý nghĩa nhằm giúp cho chúng ta hiểu thấu đáo về đạo đức kinh tế được áp dụng như thế nào trong xã hội. Mahatma Gandhi một nhà lãnh đạo anh hùng của dân tộc Ấn Độ cũng đã nói rằng: “Học thuyết kinh tế nào làm hại đến nền đạo đức của một cá nhân hay một quốc gia nào đó là một học thuyết vô đạo đức và do đó là một tội ác”. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các sự xung đột xảy đến chính là do “bản chất của Chủ nghĩa tư bản tự do” điều này làm tăng trưởng lòng tham và những dục vọng thái quá của con người hậu quả là sự gây ra khổ đau theo Tứ Diệu Đế đây chính là nguyên nhân của khổ đau. Do đó Kinh Pháp Cú 203 phẩm An Lạc đức Phật dạy:
“Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng,
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng.
Niết Bàn, lạc tối thượng.”
Đạo đức kinh tế Phật giáo bao trùm nhiều lĩnh vực từ lao động, hoạt động kinh doanh, cách thức trong kinh doanh đồng thời cách sử dụng và tiêu thụ tài sản được áp dụng đến trong các mối quan hệ với cư sĩ, chính quyền và tăng đoàn đức Phật. Tuy nhiên động cơ tiềm ẩn luôn chạy theo guồng máy kinh tế của con người đó chính là lòng tham muốn. Theo Phật giáo có hai loại “Tanha” là nhân tố liên hệ đến các cảm giác khoái lạc đây chính là hạt mầm do “vô minh” nuôi dưỡng đối lập lại chính là “Chanda” được đặt trên nền tảng của sự phản tỉnh nhằm hướng đến lợi ích chung mang tính tích cực. Chính vì thế, sự mưu sinh chân chính là giá trị thước đo đầu tiên cho một nền kinh tế bền vững.
“Theo đức Phật, để củng cố cơ sở kinh tế, trước hết phải lựa chọn nghề nghiệp mưu sinh chính đáng, nếu không, vì lòng tham muốn làm tiền quá độ sẽ đưa đến những hành động phạm tội, điều này, trong kinh Thiện Sinh. Đây hiển nhiên là nguyên tắc kinh tế gia đình mà Phật thường chỉ dạy cho tín chúng. Điều đáng ngăn ngừa nhất trong vấn đề kinh tế gia đình là việc chi tiêu quá độ. Phật thường đưa ra những nguyên nhân làm tiêu hao tiền của để cảnh giới mọi người, đặc biệt Phật nhấn mạnh về sự lười biếng và phóng đãng”. Đối với giai đoạn xã hội thời đức Phật chưa được phát triển hiên đại chính vì thế chỉ có một vài quan điểm được đưa ra về ngành nghề mưu sinh bất chính nhằm ngăn chặn chúng đệ tử nên tránh như:
“Say sưa rượu chè (surà-meraya-majja pamàdatthànà-nuyoga)
Chơi bời (vikàla-visikhà cariyà-nuyoga = lang thang ngoài đường phố những lúc không thích hợp)
Ham mê ca kỹ (samajjàbhicarapa)
Mê cờ bạc (jutappamàda tthanànuyoga)
Giao du với bạn xấu (àpamittanuyoga)
Lười biếng (okàlassanuyoga)”
Đối với E.F. Schumacher luôn khuyến khích các nhà kinh tế theo các nguyên tắc của Phật giáo là “Trung Đạo và Chánh Mạng” và con đường Chánh Mạng xuất phát từ lòng từ bi để từ bỏ tất cả danh vọng không cần dựa trên uy quyền tối cao áp bức của một nền kinh tế hiện đại nhằm loại bỏ được sự bất bạo động, áp bức chính trị. Do đây nên ông đã đưa ra ba khái niệm quan trọng tác động do Phật giáo mang lại: “Quan điểm về thế giới, bao gồm tất cả chúng sinh phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau và nhấn mạnh đến lòng từ ái và từ bi đối với tất cả. Phương diện thứ năm của Bát Chánh Đạo liên quan đến Chánh Mạng. Trung Đạo nói đến việc tránh sự xa hoa thái quá cũng như khổ hạnh thái quá”[16]. Mỗi người có được giá trị nhân cách cao quý, thì sẽ biết cách sử dụng sản phẩm vật chất có mục đích và mang lại hiệu quả cao quý dựa trên các tiêu chí:
“Tín tài (Saddhādhana) – tài sản niềm tin.
Giới tài (Sīladhana) – tài sản đạo đức.
Tàm tài (Hiridhana) – tài sản hổ thẹn cá nhân.
Quý tài (Ottappadhana) – tài sản hổ thẹn xã hội.
Văn tài (Sutadhana) – tài sản kiến thức, học rộng Phật pháp.
Thí tài (Cāgadhana) – tài sản buông xả, tâm rộng lượng, lòng vị tha, bỏ bỏn xẻn, thích bố thí.
Tuệ tài (Paññādhana) – tài sản trí tuệ, hiểu nhân quả, hiểu điều thiện ác, chánh kiến”
Một nền kinh tế muốn phát triển được bền vững và lâu dài, theo quan điểm của Phật giáo là người làm kinh tế cần phát huy trí tuệ để nhìn nhận bản chất của mọi sự vật hiện tượng theo nguyên lý duyên sinh vô ngã từ đó không bị lòng tham và sự mê mờ dẫn dắt đi vào con đường sai lạc, mê lầm. Hơn thế nữa cần có một đức tánh trung thực thể hiện con người có đạo đức tạo được lòng tin tạo được sự hợp tác lâu dài.
Phật giáo đã đưa ra năm nguyên tắc không được khai thác và sử dụng được đưa vào nền kinh tế giúp cho sự phát triển bền vững đó là không được sản xuất và buôn bán vũ khí, không được sản xuất chất độc, không được bán rượu cũng như các chất nguy hiểm, sự làm thịt động vật nhằm phục vị nhu yếu cho con người cuối cùng buôn bán các loại thịt động vật. Hơn thế nữa, kinh tế học Phật giáo luôn chú trọng đến con người cùng với sự hoạt động kinh tế hướng đến lợi ích chung: “Hoạt động kinh tế đó không lợi dụng, bóc lột những người khác, không làm tăng dục vọng của chính người đó trong lúc tước đoạt những nhu cầu cơ bản của người khác, không thuộc năm loại hoạt động bất chính về kinh tế, không dẫn đến không lãng phí quá đáng hoặc tạo ra sự mất cân bằng về sinh thái”
>>Xem thêm: Cùng chiêm nghiệm 5 điều Phật dạy để đạt thành công
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Phật học