Chùa Quang Ân và vùng đất tam thánh
Cách trung tâm Hà Nội gần 10 km là làng Thanh Liệt, thuộc huyện Thanh Trì. Thanh Liệt xưa còn có tên là Quang Liệt, tên nôm là kẻ Tó. “Vải làng Quang” thơm ngon nổi tiếng, theo lệ hàng năm, từng được chọn làm sản vật tiến vua. Kẻ tó – Quang Liệt – Thanh Liệt là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi sản sinh – đào luyện nên những danh nhân trác việt trong lịch sử nước nhà: Tướng quân Phạm Tu là phụ tá đắc lực của Lý Bí trong sự nghiệp dựng đô xưng Đế, mở chùa Khai Quốc (giữ thế kỉ thứ VI), sau khi chết được dân làng thờ làm Thành Hoàng Đô Hồ Đại Vương; Vào thời Trần Mạt (cuối thế kỉ XIV), triều chính suy vi, Chu Văn An, người con Kẻ Tó, một mình chống lại cả triều đình mục ruỗng, bảo vệ dân nghèo, mở trường dạy học, nêu cao khí tiết, được truy tôn là Tiên hiến Tiên triết, được dựng tượng thờ trong Văn Miếu cùng các trò yêu của Khổng Tử; Trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ở thời cận đại, người con quê hương Thanh Liệt là Hòa thượng Thích Thanh Hanh đóng vai trò là “đống lương thạch trụ” của Phật giáo Bắc kỳ, dù còn nhiều bất đồng nhưng với uy tín hạnh – tuệ của mình, Ngài được cá sơn môn hệ phái nhất trí suy tôn vào ngồi Thiền gia Pháp chủ, lãnh đạo Hội Phật giáo Bắc Kỳ trong giai đoạn chuyển mình đầy khó khăn của lịch sử Phật giáo – lịch sử dân tộc.
Lịch sử Phật giáo cận đại Việt Nam, lịch sử phong trào Chấn hưng Phật giáo còn ghi đậm nét tấm gương hạnh – tuệ, những đóng góp to lớn của THiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh (Tổ Vĩnh Nghiêm) với Đạo pháp, với Dân tộc. Ngôi cổ tự Quang Ân tọa lạc nơi quê hương Ngài, nơi những người Con Phật khắp nơi tới thắp hương tưởng niệm công đức của Ngài, đồng thời cũng là tư liệu lịch sử hùng hồn chứng minh truyền thống “trường miên bất đoạn” của lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Thăng Long – Hà Nội.
MỘT DI TÍCH VĂN HÓA TIÊU BIỂU THỜI HẬU LÊ
Chùa Quang Ân tọa lạc trên cánh đồng thôn Trung, xã Thanh Liệt, chùa còn được gọi tên theo địa danh là (Chùa Quang), hay chùa Tó. Chùa được xây dựng trên mảnh đất rộng 2ha, trước chùa là đầm tròn, không gian thoáng mát với hàng chục cây nhãn cổ thụ baobọc xung quanh, đặc biệt là 2 cây Bồ đề và 2 cây xoài đại thụ 5,6 trăm tuổi, tán cây phủ kín cả một vùng phía trước cổng Tam quan khiến cho ngôi chùa vốn đã cổ kính càng thêm tĩnh mặc, trang nghiêm.
Vê lịch sử chùa Quang Ân cho tới nay chia rõ bắt đầu từ khi nào, nhưng theo như cây Thạch Trụ đề (Thiên đài bi kí Quang Ân thiền tự) 8 chữ được khắc đều ở 4 mặt bia trước sân chùa còn ghi lại thì ngôi chùa Quang Ân được trùng tu lần thứ 5 vào năm Chính Hòa (Lê Hy Tôn – 1694). Mặt trước có ghi “Thành Triều thiên tử Chính Hòa nhị thập ngũ niên tuế thứ Giáp Thân” Nghĩa là Chùa Quang Ân đã được xây dựng từ rất lâu đời, vì tới năm Chính Hòa chùa đã được trùng tu lần thứ 5 rồi. Chùa được xây dựng theo mô típ: “Nội công ngoại quốc” và “hồi bịt đốc, tiền Phật hậu Thánh (trước là Đại Hùng Bảo Điện, sau là Tổ đường, điện mẫu), đây là phong cách kiến trúc, bài trí tiêu biểu của chùa thời Hậu Lê. Ngoài cách bố cục theo phong cách thời Hậu Lê ra thì cách bố trí tượng trong chùa cũng theo thời thời Hậu Lê là Tam giáo đồng quy. Tức trong chùa có đủ 3 hệ thống tượng đại diện cho Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Đây cũng là đặc trưng và khác biệt với Phật giáo Lý, Trần rõ nét nhất.

Tam quan chùa Quang Ân
Thông qua văn hóa nghệ thuật , Phật giáo thời Lý, Trần là đi vào chiều sâu giáo lý. Đến thời Hậu Lê, một phần do thời thế, một phần do giáo lý của Đức Phật dãđược phổ cập rộng rãi trong quần chúng nhân dân, do vậy Phật giáo hòa nhập vào cùng xã hội với một bình diện rộng lớn hơn.
Trong quần thể di tích chùa Quang Ân còn có khu vườn tháp chư tổ. Đặc biệt là ngôi tháp của Thiền gia Pháp chủ, ngôi tháp được an trí ở chính giữa vườn tháp, tuy thời gian kiêm nhiệm trụ trì của Pháp chủ không lâu nhưng bởi sự ảnh hưởng của Ngài đã lan tỏa ra khắp đất nước, do vậy với tâm thành kính và ngưỡng mộ đạo hạnh của Ngài, Tăng ni Phật tử đã xây dựng ngôi tháp bái vọng Ngài.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TỔ THIỀN GIA PHÁP CHỦ
Tổ hiệu là Thanh Hanh, sinh năm 1840 tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông cũ. Ngài dòng họ Bùi, vốn truyền thống Nho gia, từ khi mới sinh đã bộc lộ khí phách khảng khái nhưng hiền hòa. Với tư chất thông minh nên 7 tuổi Ngài đã được học Nho học. Đến năm 10 tuổi bỗng 5 căn nhận rõ cơ trần dời đổi vô thường nên một mực khăng khăng xin phụ mẫu được xuất gia tìm thú vui nơi cửa Phật. Tuy rằng tình mẫu tử sâu dầy tựa bể nhưng với chí khí quyết tâm của mầm Bồ đề nơi con nhỏ, phụ mẫu dầnh thân dẫn lên chùa Vĩnh Nghiêm thuộc làng Đức La, phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Với duyên lành sẵn có, Ngài được tổ làm lễ phát xuất gia. Qua năm tháng dưới sự chỉ bảo tận tình của tổ, kết hợp với tinh thần nỗ lực siêng năng của Ngài, bao nhiêu nghĩa khó đạo mẫu cũng dễ dàng ăn sâu vào tâm khảm, nước đức rửa sạch bụi trần, bể giới đến ngày thấy châu ngọc. Năm 20 tuổi Ngài được đăng đàn thụ giới Cụ Túc.

Năm 30 tuổi, đạo lý đã lầu, nghĩa thiền càng chín. Ngài được Nghiệp sư cử vào Ninh Bình dạy học cho tang ni tại chùa Phượng Ban, chùa Hoàng Kim, chùa Phúc Chỉnh đến đâu Ngài cũng lấy việc đào tạo Tăng tài, hóa độ chúng sinh làm sự nghiệp, nhờ vậy Tăng Ni Phật tử đều được thấm nhuần mưa pháp và trở thành giường cột của Phật pháp sau này. Với đạo hạnh thanh tịnh và trang nghiêm, năm 60 tuổi Ngài đã được cả sơn môn phó thác trách nhiệm trụ trì tổ đình Vĩnh Nghiêm. Vì sứ mạng là Như Lai sứ giả, Ngài đã thường xuyên lui tới trường Viễn Đông Bắc Cổ sưu tầm các kinh điển đại thừa và vận động các tổ đình khắc ván in kinh, Ngài còn trực tiếp viết lời tựa cho các kinh. Những bộ kinh đã được khắc in như: Kinh Hoa Nghiêm sớ sao, Đại Bát Nhã Kinh, Kinh Đại bảo tích, Kinh Duy Ma, Kinh trường A Hàm, Luật Tứ Phận tu trì, Luật Trùng Trị tục khắc v.v… Qua những lới tựa này, ngày nay chúng ta thấy sự uyên thâm của ngài như Bảo đỉnh, thật là bậc Phúc tuệ đầy đủ vậy.
Tháng 11 năm Ất Hợi, Tổ đã ngoài 90 tuổi , còn hăng hái đứng ra chủ trương việc chấn hưng Phật pháp, Ngài đã cùng Tăng ni Phật tử đồng tâm hiệp lực thành lập hội Phật giáo Việt Nam, Ngài luôn mong rằng: Phật giáo nước nhà phải theo kịp sự phát triển của Phật giáo thế giới. Quả là, Ngài như bong cây đại thụ của Phật giáo Việt Nam cận hiện đại. Tháng 12 năm Ất Hợi, hội Việt Nam Phật giáo cử hành lễ suy tôn Tổ lên ngôi Thiền gia pháp chủ hầu mong Tổ kết tập gần 100 sơn môn lại thành một giáo hội có tinh thần lực lượng phục hưng lại quy củ thiền gia và tu hành có hệ thống. Tuy rằng tuổi cao sức yếu nhưng tinh thần Tổ vẫn mạnh mẽ quyết thực hiện tốt sự tin tưởng và ủy thác của toàn thể Tăng ni Phật tử.
Năm Bính Tý (1936) nhằm ngày mùng 8 tháng 12, công hạnh của Ngài đã viên mãn, đương lúc cây thất bảo cành dài bóng cả che rợp rừng thiền nay một phút xe Bách hương mây đưa gió cuốn thẳng về miền vô vi cực lạc nhưng Ngài vẫn lưu lại cả một hệ thống quy củ thiền gia cho hậu thế.
QUANG ÂN TRONG THỜI KỲ CẬN HIỆN ĐẠI

Phật giáo là một tôn giáo bình đẳng và bắc ái với mục đích đem lại lợi ích cho số đông, do vậy luôn chủ trương hòa bình với tất cả, không phân biệt tôn giáo hay chủng tộc, nói như vậy không phải Phật giáo sẽ thỏa hiệp với cái sai hay điều ác mà Phật giáo luôn luôn tôn trọng và bảo vệ lẽ phải với tấm lòng từ bi trí tuệ và bằng những thiện sảo tuy là gián tiếp nhưng Phật giáo đã góp phần chuyển hóa nhiều trái tim tàn ác thành những trái tim nhân hậu, nhiều cuộc xung đột trở thành bằng hữu. Điều này lịch sử đã chứng minh từ khi Phật giáo được hình thành cho tới ngày nay, ngay cả trên đất Việt Nam cũng vậy. Do đó trong các cuộc kháng chiến, để bảo vệ nền tự do độc lập của dân tộc, Phật giáo luôn đồng hành chia xẻ những đắng cay, ngọt bùi của một dân tộc. Cũng giống như nhiều ngôi chùa khác trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Quang Ân cũng là một cơ sở thường lui tới của Việt Minh, có những vị sau giải phóng từng là lãnh đạo cao cấp của nhà nước. Năm 1995 chùa Quang Ân được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia. Để nối tiếp sự nghiệp của chư tổ, từ năm 1996 chùa Quang Ân đã không ngừng trùng tu và phát triển. Đặc việt từ năm 2005, với đại nhân duyên mà các tổ gieo mầm, chùa thường xuyên được đón các vị cao tăng đến thăm viếng và truyền pháp, nơi đây đã trở thành một trung tâm Drukpa của Việt Nam chuyên hành trì nghi thức Mật giáo.
ĐĐ. Thích Minh Trí (Trích đăng từ Tạp chí Khuông Việt số 2)