Thánh tổ Non Đông
NGUYỄN TÁ NHÍ
Đại sư là người làng Muống đất Trà Xuyên, vốn họ Vương, hiệu là Quán Viên, sinh năm 1257 đời Trần Thái Tông. Lúc mới sinh ra Ngài có tướng mạo kỳ dị, thần thái lanh lẹ khác thường. Thuở nhỏ Ngài đã mổ côi cha, bà mẹ rất đỗi thương con, nên nén lòng ở vậy nuôi con khôn lớn. Năm lên 10 tuổi, bà mẹ cho đi học, Ngài khắc khổ học tập mười năm đèn sách miệt mài, tinh thông kinh sử. Năm 1275, Ngài ngộ đạo, liền đến ở với Đại sư Kiên Huệ ở chùa Báo Ân huyện Siêu Loại, được Đại sư cắt tóc thụ giới cho. Năm Ngài 20 tuổi, Đại sư Chân Giám ở chùa Nghĩa Trụ trạo cho cụ túc giới. Từ ngày giới pháp đủ đầy, thì đức hạnh của Ngài càng cao, vượt hẳn người thường, trong Thiển môn đã xem Ngài là bậc đại tượng. Đến khoảng niên hiệu Trung Hưng (1285 – 1293) đời Trần Nhân Tông, đất nước gặp hiểm nguy, giặc Nguyên đến xâm phạm kinh thành, đạo Phật có phẩn suy vi, nhiều vị sư tăng bỏ bễ cảnh chùa, riêng có Đại sư là bền lòng giữ đạo dốc sức cứu độ dân sinh, do vậy được mọi người mến mộ theo về.
Chùa Báo Ân gần sát kinh thành, nên xe ngựa dập dìu, quan chức đua nhau đến vãn cảnh, không chịu nổi cảnh ồn ào chốn phồn hoa, Đại sư liền nhận lời mời của Thiển sư Đại Nghĩa ở chùa Non Đông mà đến đó trông nom.
Người vùng Non Đông vô cùng hoan hỉ, họ cung kính gọi Ngài là Hoà thượng Non Đông và bảo nhau rằng: Đây là thời của Phật pháp Non Đông ta vậy. Thế rồi họ nô nức rủ nhau đến cúng dàng, nào tiền nào gạo, nào hương nào hoa, nhất nhất đều đủ đầy. Thế nhưng Đại sư quyết không nhận của ai một hạt gạo, ngài tự cày ruộng lấy mà ăn, có dư dật tí nào thì đem chu cấp cho kẻ tiều phu. Vào những năm Hưng Long (1293 – 1314), dân tình có ý xa lánh chính đạo, chùa chiền hoang phế, bọn đồng cốt quàng xiên đua nhau dựng lên các dâm từ cúng bái gây hại càng nhiều. Đại sư thấy đau lòng, suy nghĩ lung lao, muốn tìm cách cứu vớt thế tục. Ngài nghĩ rằng, muốn dẹp bỏ tà giáo, ắt phải dựa vào chính giáo. Thế rồi Ngài quyết định dẫn các đệ tử xuống núi lập đàn thuyết pháp độ sinh. Việc làm của Đại sư được triều đình ủng hộ, nên cho thực hành khắp các lộ. Ngài đưa ra lời khuyến cáo rằng: kẻ u mê mau tỉnh ngộ, kẻ gian ác sẽ bị trừng trị nghiêm minh. Từ đó, các tệ nạn trong xã hội dần dần được dẹp bỏ, người đương thời tôn xưng là Phật hoàng xuất thế. Đạo pháp nhờ thê’ mà được hoằng dương, mọi người tự tu tự độ, chẳng bao lâu trên đất Đại Việt đã thấy chốn chốn đều là Tịnh độ, người người đểu có Phật tích.

Thánh tổ Non Đông còn lưu giữ tại chùa)
Nhận thấy uy đức của Ngài rộng khắp, vua Trần Anh Tông liền ngự giá thăm chùa, lại tự tay bao sái thắp hương cúng Phật, ngợi khen hết mực, ban hiệu cho Ngài là Huệ Nhẫn quốc sư. Ngài một mực từ chối không dám nhận, song triều đình hễ có công việc gì hệ trọng, Ngài đều dốc lòng phò tá. Đến khi hoàn thành việc lớn, nhà vua ban chiếu mời về, Ngài lại lẩn tránh đến vùng xa. Nhiều khi cực chẳng đã, Ngài vào kinh thành, nhưng hễ xong việc lại vội về ngay, không để ý đến lời mời vồn vã của các vị quý tộc trong thành. Đến lúc cuối đời thì Ngài càng cao đạo, bèn bỏ lại các môn đệ ở chùa, một mình đi ra biển Đông kê đá nổi làm am chăm chắm nhìn ra biển Đông, để tìm thấy chân tính. Ngài đặt tên cho am đó là Minh Tịnh Liên Xã, rồi đóng cửa ở đó không ra nữa. Đến đêm ngày 27 tháng Giêng năm Ất Sửu (1325) niên hiệu Khai Thái thứ 2 đời Trần Anh Tông, Ngài thị tịch, hưởng thọ 69 tuổi, tuổi lạp là 51. Các môn đệ tuân theo di mệnh an táng ở ngọn núi phía sau am Liên Xã. Vua Anh Tông thương sót, sai quan đến điếu viếng, lại làm thơ tán thán rằng:
Tự tòng Viên Công khứ thế hậu
Thiên hạ Thích tử không vô nhân.
Nghĩa là:
Từ lúc Quán Viên công tạ thế
Sư tăng thiên hạ chẳng còn ai.

Đời sau triều đình bỏ của kho giúp chùa dựng tháp, lại ban tặng biển ngạch là Từ Giác Sùng Đức tự. Dân quanh vùng mến mộ công đức của Ngài, thường gọi là Thánh tổ Non Đông. Hàng năm cứ đến ngày giỗ của Ngài, dân khắp vùng già trẻ gái trai nô nức dập dìu lễ Phật và chiêm ngưỡng công đức của Thái Tổ. Công đức ấy còn mãi trong lòng dân, muôn thuở nào quên. Nhiều người đã viết văn làm thơ ca ngợi. Một trong những bài thơ hay đó là bài “Vịnh cảnh Non Đông” của chúa Trịnh Cương (1705-1730) viết khi đến thăm chùa:
Gây lên Ngoa cực chống trời Đông
Giá ấy cân xương vẫn lọt vòng.
Thức ánh minh châu lồng viễn phố
Tầng xây hoa cái rỡ kỳ phong.
Đan thanh sẵn dạm đổ Bông Đảo
Thiết thạch bền rèn bạn trúc thông.
Trong thuở đăng lâm mây nối gót
Thước gang đường đã tạn vẳng hổng.

Ngày nay Thánh Tổ Non Đông đã về cõi Niết Bàn được gần tám thế kỷ, song công đức của Ngài thì còn để mãi với tăng ni và Phật tử ở Long Khánh Kinh Thành, Báo Ân Gia Lâm, Nghĩa Trụ Văn Giang, Nam Đông Mạo Khê và cả ở chùa Tế này. Nhân dịp nhà chùa xây dựng lại từ vũ, nhờ cậy hồng ân Tam bảo, nhờ cậy công đức của Thánh tổ Non Đông, nhờ cậy tấm lòng của chư đạo hữu và Phật tử mười phương, toà Tam bảo chính điện của chùa Tế đã viên mãn hoàn thành. Do vậy nhà chùa cung kính viết lại đôi dòng về sự tích Thánh tổ Non Đông để ai nấy đều được gội nhuần ân đức của Ngài.
Nam mô hoan hỉ Bồ tát ma ha tát tác đại chứng minh.
(Trích đăng từ Tạp chí Khuông Việt số 1)