Tìm về Am Tri Kiến
Theo Thánh Đăng Ngữ Lục cho biết có am Tri Kiến trước ngày Thượng hoàng Trần Nhân Tông tu theo 12 hạnh Đầu Đà và tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà, mà dân gian gọi bằng cái tên thân thương là Sơn Tăng:
Mặc áo cà sa nằm trướng giấy
Màng chi châu đẫy, ngọc đầy nương
(Vịnh Vân Yên tự phú – Huyền Quang)
Bảy năm sau ngày Thượng Hoàng Nhân Tông xuất gia, tháng 3 năm Tân Sửu, niên hiệu Hưng phương, sang Chiêm Thành và đến tháng 11 năm ấy sự kiện này hoàn toàn khớp với Thánh Đăng Ngữ Lục viết về cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.
“Sau ở chùa Phổ Minh của phủ Thiên Trường, Thượng Hoàng mời đến các danh Tăng, mở các trường giảng, trải mấy năm bèn vân du phương ngoại, đến trại Bố Chính, chọn am Tri Kiến để ở”(1).
Nội dung chính của tham luận này rất khiêm tốn là chỉ “tìm về am Tri Kiến”, một di tích quan trọng của ThuậnHhóa, và đất nước Việt Nam ngày nay. Vì rằng đó không những chỉ là đỉnh mốc thời gian, không gian của một cứ điểm lịch sử liên quan đến việc mở nước và dựng nước của nòi giống Tiên Rồng mà còn bởi những tác giả phân tích gốc gác, ngọn nguồn của am Tri Kiến còn lệch lạc.
Nhờ tác phẩm Thánh Đăng Ngũ Lục mà phanh phui ra được vị trí tổng quan về am Tri Kiến. Sách Ô Châu Cận Lục đã nhắc đến địa danh Tri Kiến 2 lần, lần một quyển 3, trang 49, “Tri Kiến lắm đàn bà góa” , lần thứ 2 ở trang 58 “Tri Kiến xưa nơi đặt huyện, Tả Bình nay tức phủ Bình”. Cả hai chi tiết ấy đều trích từ tựa đề Tổng luận về phong tục của sách đã dẫn.
Theo bản gốc chữ Hán của sách Ô Châu Cận Lục thì danh xưng Tri Kiến lại viết hai dạng thức khác nhau:
1- 知建Tri Kiến; Kiến (知建) nghĩa là dựng, lập, như trong nguyên văn: 知建多孀婦 (Tri kiến đa sương phụ), trang 38b. Ở đây, có nét lưu ý là sách Ô Châu Cận Lục của Bùi Lương dịch, NXB văn hóa Á Châu, Sài Gòn, 1961 lại không ghi tình tiết đã dẫn ở phần dịch.
2- 知見 (đồng ân với Tri Kiến 知建 như đã dẫn bên trên). Kiến (見) là thấy. Tri Kiến là thuật ngữ nhà Phật nhưng trong luận ngữ Chánh tri kiến, một chí của Bát chánh đạo.
Thế mà bản Ô Châu Cận Lục, mang ký hiệu A.263 của thư viện Hán Nôm(2) lại có chữ 知見 thành 知建. Chỉnh sửa chữ Kiến (見) ra nghĩa “xây dựng” (Kiến thiết) (建) bằng nét mờ nhỏ ở phía bên phải (tr.45a).
Xét về việc sửa chữa này, người viết tỏ ý đồng tình với quan điểm của lời giới thiệu sách (từ tr.1-8) của các dịch giả ở Viện Hán Nôm:
“Điều này không thống nhất với cách làm thận trọng, khoa học hơn của Nguyễn Hàm Chuẩn thể hiện quâ phần khảo chính biên là giữ nguyên chính văn đưa dị văn vào một phần riêng kèm theo ở cuối, chứng tỏ chúng không phải những khảo chính của Nguyễn Hàm Chuẩn”(3)
Nguyên văn câu có dụng ý dùng thuật ngữ Tri Kiến (知見) của sách Ô Châu Cận Lục như sau:
知見古之縣建,左平今即府平
(Tri Kiến cổ chi huyện kiến, Tả Bình kim tức phủ bình)
Dương Văn An viết bài Tổng luận về phong tục của xứ Thuận Hóa theo thể loại phú, đó là văn tự sự mang tính cách chính luận của văn cổ điển (4) mà cấu trúc của ngữ văn, ngữ điệu theo lối tiểu đối, mạch văn gối hạc dựa vào lối văn biến ngẫu của văn xuôi thời thượng.
Sách Ô Châu Cận Lục đã dẫn bên trên dịch câu chữ ấy là “Tri Kiến xưa nơi đặt huyện, Tả Bình nay tức phủ Bình”.
Giáo sư Lê Mạn Thát dịch vế thứ nhất chưa được nhẹ nhàng “Tri Kiến là nơi dựng của huyện xưa”, trong sách Toàn tập của Trần Nhân Tông, tác giả đã vội vàng khẳng định:”Cho nên, am Tri Kiến là ngôi chùa của lỵ sở Tri Kiến của Bố Chính” và lại chú thích: “Câu này có thể dịch: “Tri Kiến là huyện Kiến xưa. Kiến do thế có thể là một tên gọi địa phương của Tri Kiến””(5).
Còn bản dịch Ô Châu Cận Lục của Bùi Lương (không có phần Hán Văn), không hiểu tại sao lại bỏ câu như đã dịch được ghi lại vừa rồi ở bên trên. Sách này bị mất chữ chăng?
Như vậy, nội dung phần trưng dẫn ở bên trên đã khẳng định có hai địa danh tri kiến:
1- Tên của am Tri Kiến, thuật ngữ này có sự thanh tịnh về sự hiểu biết đích thực mà ngày nay Joseph Goldstein diễn nghĩa rõ ràng:
“Sự thanh tịnh về Tri Kiến là cữa ngõ để tiến đến cái nhìn thấu suốt lớn lao hơn nữa và kể cả dẫn đến những mức độ cao về hạnh phúc”(6).
Điều Ngự Giác Hoàng đã chỉ dạy cho đời sau biết rõ am Tri Kiến là cữa ngõ phía Nam đi tìm đường mở nước và dựng nước không tốn dọt máu đào. Phên giậu Thuận Hoa sau này là bàn đạp để cho các vương triều đời sau mở rộng giang sơn đất nước đến tận đất mũi Cà Mau.
2- Tên một địa danh của huyện Tri Kiến ngày xưa năm 1301 còn hiện hữu và nhắc lại trong sách Ô Châu Cận Lục ra đời năm 1555. Ở thời điểm này huyện Tri Kiến không còn nữa về cơ cấu tổ chức hành chính.
Thế thì huyện Tri Kiến đã trở thành huyện cũ (Tri Kiến cổ) nhưng giáo sư Lê Mạnh Thát gọi là “huyện xưa”. Nay nếu phanh phui gỡ mối tơ vò và nếu tìm ra tọa độ, địa phận của huyện xa xưa đã lùi vào dĩ vãng thì ta sẽ đứng trên đất huyện xưa ấy mà nghĩ suy như Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi
Nhà thơ Hạnh Nguyên dịch là:
Ta ngồi tại chỗ hôm nay,
Tiền nhân tại đó trước đây hữu tình
Tri Kiến là “địa phương” tứ đất Phật: Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt. Tại các huyện khác thuộc phủ Tân Bình có nhiều chùa cổ tên tuổi, khác với cách nhìn luận giải của một vài tác giả viết về các ngôi chùa cổ trên tỉnh Quảng Bình ngày nay.
Trở lại với địa danh Bố Chính từ những năm 1069 của nước Đại Việt và lại được ghi trong bản đồ của Lý Thường Kiệt vẽ năm 1075(7) vua Lý Nhân Tông đổi châu Địa Lý là châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, còn châu Bố Chính thì giữ nguyên tên gọi từ thủa ban đầu. Địa danh bố chính đã được Thánh Đăng Ngữ Lục nhắc đến và gọi là Bố Chính.
Trước khi Bố Chính trở thành một phần lãnh thổ của nươc Đại Việt (tức miền đất phía Bắc của tỉnh Quảng Bình ngày nay), Bố Chính là đơn vị hành chính mà người Chiêm Thành được gọi là trại, giống như trại Hoan, trại ÁI hoặc trại Nguyên. Đại Việt Ký Sử Toàn Thư, sđd, tr.262 đã chú thích: “Miền đất Quảng Bình bây giờ cũng được gọi là Bố Chính. Trại là miền đất, vùng đất chưa được khai hóa ngang bằng so với các lộ. Năm sau, Tân Hợi (1011), vua Lý Thái Tổ sai thái tử Phật Mã làm Nguyên soái đi đánh Chiêm thành ở trại Bố Chính*. Lộ không những là đơn vị cấp hành chính cơ sở ngang bằng thôn, phường ở miền bán sơn địa, hoặc trên sông nước lênh đênh của những phường chài hạ bạn…”
Thời Minh thuộc, năm Nhâm Ngọ (1402), giặc Ngô đổi châu Bố Chính (nguyên trại Bố Chính trước năm 1609) thành châu Chính Bình thuộc phủ Tân Bình. Châu Chính Bình cai quản 3 huyện Chính Hòa, Cổ Đặng và Tùng Chất. Thời Minh thuộc đã đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình gồm 3 huyện Phúc Khang, Nha Nghi và Tri Kiến, châu Minh Linh thành châu Nam Linh gồm 3 huyện Tả Bình, Đơn Duệ và Dạ Độ.(9) Ấn tích về tên gọi của 9 huyện này còn để lại đậm nét trong sách Ô Châu Cận Lục. Người đọc dễ dàng nhận thấy được 7/9 địa danh, ngoại trừ 2 địa danh Chính Hòa và Cổ Đặng có nghi vấn nằm ở bên kia ranh giới tình Quảng Bình. Chính huyện mới vào thời điểm năm 1419 hợp thành 3 châu lấy tên mới phủ Lâm Bình (tên cũ Chính Bình). Không rõ theo hệ thống hành chính mới của quân xâm lược Nhà Minh nâng Lâm Bình thành phủ hồi nào. Quốc sử đã bất khả khảo – không thể tra cứu căn cứu cặn kẽ với thời chính chiến ấy sử liệu rất lung tung, thất tán theo gót quân Ngô tàn bạo xâm lược đất nước Đại Việt.
Năm Kỷ Hợi, 1491 lại đem huyện Dạ Độ sáp nhập vào huyện Tả Bình. Vì thế và phủ lỵ của phủ Tân Bình đóng trên địa phận huyện Tả Bình như sách Ô Châu Cận Lục đã viết “Tả Binh tức phủ Bình” (Đất huyện Tả Bình nay thuộc phủ Tân Bình). Huyện Tri Kiến thuộc châu Lâm Bình được nhập và huyện Nha Nghi. Vì vậy năm 1553, tác giả sách Ô Châu Cận Lục viết để hai năm sau ấn hành, đã gọi huyện Tri Kiến là: “Tri Kiến cổ tri huyện Kiến” (danh xưng Tri Kiến xưa là nơi huyện Tri Kiến đặt huyện lỵ). Vào thời điểm năm 1553 thì huyện Tri Kiến đã bị xóa sổ bằng cách nhập vào huyện Nha Nghi năm 1469 đã là 151 năm tính ra ngày huyện Tri Kiến nhập vào huyện Nha Nghi cách đây đã 601 năm!
Nói rút lại, vế câu: “Tri Kiến cổ tri huyện Kiến, Tả bình kim tức phủ Bình” 知見古之縣建,左平今即府平 được diễn nghĩa rõ ràng như sau: “Danh xưng Tri Kiến xưa là nơi huyện Tri Kiến đặt huyện lỵ, đất cũ huyện Tả Bình nay thuộc phủ Tân Bình”. Đây là một danh xưng địa lý hành chính.
Tri Kiến là tên riêng của am Tri Kiến 知見菴 đồng âm với danh xưng này có địa danh Tri Kiến 知建 là tên một huyện, tên thôn, phường, trang (không phải làng tức xã dới triều Trần và Lê) cho nên không thấy ghi ở quyển 3 của sách Ô Châu Cận Lục ở mục bản đồ ghi tên làng xã của hai huyện Lệ Thủy và Phúc Khang mà năm 1419 đã nhập chung lại thành huyện Nha Nghi của huyện Lệ Thủy và Kiến Lộc (về sau là Khang Lộc) dới triều Lê (năm1496) tức châu Địa Lý (năm 1069): quả thực là “châu về hợp phố”(10)
Am Tri Kiến tọa lạc trên đất thôn (phường, trang, giap, hương … ) Tri Kiến thuộc huyện Tri Kiến mà huyện này đã trở thành đất của huyện Nha Nghi(11). Ở thời điểm sách Ô Châu Cận Lục ra đời thì huyện Tri Kiến không còn nữa, nhưng chắc rằng huyện lỵ Tri Kiến đã một thời: Nha Nghi áo mũ đẹp như tranh. Như vậy, Tri Kiến là một địa danh và đồng thời ở thời điểm đó, tại huyện Tri Kiến, người ta đã xây một cái am, một ngôi chùa, và theo cách gọi của dân gian, người ta gọi luôn là am Tri Kiến.
Huyện Lệ Thủy có từ năm 1469 là do hai huyện Nha Nghi và Tri Kiến (có từ năm 1419, nơi có sông Kiến Giang chảy qua, lỵ sở của huyện ở xã Cổ Liễ, chưa rõ dựng từ năm nào: “Tuy Lộc lắm rượu ngon, Cỗ Liễu nhiều con hát”.
Đào Duy Anh tác giả sách Việt Nam qua các triều đại lịch sử cho biết am Tri Kiến ở huyện lỵ Lệ Thủy ngày nay.(12)
Chùa Cổ Kình thiên, chùa Tiên Nguyễn Hoàng dựng lập lại trên vị trí chùa cổ cùng tên gọi vào năm Kỷ Dậu, 1609 thuộc phương Thuận Trạch (thuộc huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, năm Minh Mạo thứ 7 đổi là chùa Hoằng Phúc.(13) Chúa Tiên đã trùng tu lại chùa cổ này, sau các chùa Thiên Mụ (năm 1602), chùa Bảo Châu (năm 1607 ở Trà Kiệt, Quảng Nam).
Chùa Kính Thiên ở gần trạm Bình Giang có trước năm 1553 khớp đúng với lời ghi của sách Đại Nam Nhất Thống Trí, tỉnh Quảng Bình:
“Sông Gianh: ở cách huyện lỵ chừng 1 dặm về phía Tây, tục gọi là sông Trạm tức Trạm Bình Giang xưa…”(14)
Thật lý thú khi đọc trang 80 sách Ô Châu Cận Lục viết về sông Bình Giang, xin trích đoạn: Ven hai bên bờ sông là nhà dân, thôn chợ, công sở, huyện lỵ, quận thú, trấn thành của hai huyện Lệ Thủy và Khang Lộc.
Tháng 2 năm 2007, Phật lịch 2550, Tạp chí Văn hóa Phật giáo số 27 ra ngày 15/2/2007 có bài viết “Chùa Hoằng Phúc, ngôi chùa cổ còn lại trên đất Quảng Bình” của Nguyễn Ngọc Trai, từ tr.14 đến 16 đã khẳng định rõ ràng địa chỉ của ngôi chùa cổ Kính Thiên tức Hoằng Phúc ngày nay:
“Có lẽ ít ai biết rằng, tại khu dân cư Mỹ Thủy, cách trung tâm huyện Lệ Thủy 4 km, cách quốc lộ 1A 3km, từ chợ Mai đi vào, hiện còn lưu dấu một ngôi chùa cổ: chùa Hoằng Phúc, một trong số ít chùa cổ của vùng đất Thuận Hóa xưa…”.
Tưởng niệm vua Trần Nhân Tông ngày húy kỵ thứ 700, đồng thời kỷ niệm 707 năm ghi dấu ngày Thượng Hoàng vân du đất Chiêm Thành với tư cách là một bực Thiền sư, đàm đạo với vua Chiêm là Chế Mân trong tình giao hảo tốt lành để cùng chung lo việc giữ nước và hoằng hóa độ sanh. Ngài đã đến châu Bố Chính phía bắc tỉnh Quảng Bình ngày nay rồi chọn am Tri Kiến ở châu Địa Lý, nơi danh lam thắng địa xứ Thuận Hóa để ở trước khi vào Đồ Bàn của nước bạn láng giềng thân thiện.
Từ mốc thời gian lịch sử ấy, thì phước địa Tri Kiến thuộc huyện Tri Kiến xưa ấy, mà nay đã 707 năm rồi. Dấu ấn văn hóa tâm linh và lịch sử đã khiến cho nhân dân Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế choàng tỉnh dậy, nhân dân cả nước Việt Nam, danh nhân thế giới Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao ngọn Yên Hoa của quần thể di tích Yên Tử đã viết vào lúc tuổi tri thiên mệnh còn dư 1 hoặc 2 tuổi:
Nhân miếu dương niên di tích tại,
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng
Nghĩa là:
Dấu ấn Nhân Tôn còn vẫn đấy
Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.
Điều đó, đã nói lên giá trị lịch sử của huyện Tri Kiến, am Tri Kiến, nơi Thượng hoàng Trần Nhân Tông là Điều Ngự Giác Hoàng đã xuất phát du hòa phương nam lập nên một thế “hợp tung” để sau này góp phần chống lại ý đồ xâm lược của Nguyên Mông sau khi chúng đã thất bại tả tơi ba lần đối đầu với nhân dân nước Đại Việt dới thời vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông.
Nam mô hoan hỷ Bồ Tát Ma ha tát.
————————–
1 Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.201.
2 Dương Văn An, Ô Châu Cận Lục, Viện nghiên cứu hán nôm, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. Phần chữ Hán đề năm Duy Tân thứ 4 tức năm Canh Tuất, 1910.
3 Ô Châu Cận Lục, sđd, tr.7. Sách do Nguyễn Hàm Chuân khảo chính có phần được gọi là Ô Châu Cận Lục Khảo Chính Biên.
4 Quảng Hàm, Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, NXB Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn 1957, tr.180.
5 Toàn tập Trần Nhân Tông, sđd, tr.201,202.
6 Văn hóa Phật giáo sổ 65, 15-9-2008, Joseph Goldstein, hạnh phúc tiến hóa luận, Nguyễn Hiền Phác dịch. Tr.44.
7 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập 1, NXB Văn hóa Thông Tin, Hà Nội, 2004,tr.329.
8 Đại Việt Ký Sử Toàn Thư, Tập 1, sđd, tr.262-284.
* Người viết ghi đậm 3 từ: trại Bố Chính trích từ tr.284.
9 Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 2, tỉnh Quảng Bình, NXB Thuận Hóa, Huế, 1997, tr.6,7. Dẫn trích lại từ sách Thiên Hạ Quân Quốc Lợi Bệnh Toàn Thư của Trung Quốc.
7/9 địa danh dễ tìm thấy trong Ô Châu Cận Lục:
1- Phúc Khang (tr.24, 32, 72…)
2- Tả Bình (tr.43)
3- Nha Nghi (tr.43)
4- Đơn Duệ (tr.24, 42, 75… )
5- Tri Kiến (tr.49, 58)
6- Dạ Độ (tr.90…)
7- Tòng Chất (tr.39)
10 Việc đặt tên huyện theo cách chia châu ở thời Lý thành nhiều huyện dời thời Trần và Lê đều chọn từ hay ý đẹp tỏ ý lâu bền, quy thuận, khai hóa thịnh vượng… Tứ tự thành ngữ “khang ninh thọ lộc” là một điển hình để đặt tên các địa danh ở Quảng Bình đời Trần nhập huyện, thời Lê tách huyện.
11 “Nha Nghi áo mũ đẹp như tranh” (theo Ô Châu Cận Lục) để chỉ chung cho cảnh sinh hoạt ở chốn lỵ sở phủ huyện ngày xưa.
12 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các triều đại lịch sử, NXB Thuận hóa, 2000, tr.
13 Đại Nam Thực Lục, tập 1, Viện sử học dịch, NXB giáo dục, 2004, tr.36.
14 Đại Nam Nhất Thống Chí, Tỉnh Quảng Bình, sđd, tr.35.
HT.Thích Hải Ấn (Trích đăng từ Tạp chí Khuông Việt số 6)