PHẬT GIÁO TRÚC LÂM ĐÂU CHỈ CÓ THIỀN HỌC
TT. TS. THÍCH ĐỒNG BỔN
Thái Tông hai lần nói tới việc “mượn đến phương pháp niệm phật” cho ta thấy vua xem niệm Phật cũng là một phương tiện thiền định, bởi niệm Phật là gạn học tâm lý, diệt trừ ác nghiệp, phá trừ những chướng ngại tâm lý để làm hiển lộ bản tính mà cũng là Phật tính. Tại sao chúng ta không cảm nhận được cái quốc hồn quốc túy này là một trong những thành tố truyền thống của Phật giáo Trúc Lâm, bởi tinh thần của Trúc Lâm là tổng hợp và dung nạp vô ngại?
PHẬT GIÁO TRÚC LÂM ĐÂU CHỈ CÓ THIỀN HỌC
Trong thời Trần, tinh thần dung hợp và tự do là chủ yếu. Không bao giờ có chuyện chống đối và chỉ trích Nho giáo cùng Lão giáo. Mặc dù là hệ tư tưởng chủ đạo, nhưng Phật giáo đã để lại cho Nho giáo và Lão giáo tự do phát triển.
Nói đến Phật giáo Trúc Lâm là nói đến sự rực rỡ của thiền học Trúc Lâm. Nhưng Phật giáo Trúc Lâm đâu chỉ có thiền. Điểm độc đáo của dòng phái này là tông chỉ tam pháp ấn: Thiền – Tinh – Mật. Chính sự kết hợp mang tính toàn diện này đã làm Phật giáo Trúc Lâm tồn tại dài lâu với dân tộc do thâm nhập vào đời sống của các tầng lớp xã hội, từ trí thức cho tới người ít học, từ hoàng tộc, quan lại cho tới dân thường.
Phật giáo Trúc Lâm và pháp môn Tịnh độ
Vấn đề niệm Phật đã được Trần Thái Tông và Tuệ Trung đề cập tới. Đối với cả hai người, niệm Phật cũng như ngồi thiền, có mục đích gạn lọc tâm ý và thể hiện pháp thân. Thái Tông có nói đến việc ” sinh về nước Phật”, trong đoạn văn sau:
“Đối với bậc hạ trí, miệng phải chuyên niệm lời Phật, tâm phải mong thấy tướng Phật, thân phải nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêu năng tu hành không thoái chuyển, sau khi mạng chung sẽ tùy thiện niệm của mình mà được sinh về nước Phật, sau đó được nghe chính pháp do chư Phật giảng dạy mà chứng được quả vị Bồ đề, cũng đạt tới địa vị Phật… “1
Thái Tông hai lần nói tới việc “mượn đên phương pháp niệm Phật cũng là một phương tiện thiền định, bởi niệm Phật là gạn lọc tâm ý, diệt trừ ác nghiệp, phá trừ những chướng ngại tâm lý để làm hiển lộ bản tính mà cũng là Phật tính.”
Bài thơ của Tuệ Trung về Tịnh độ cũng cho biết ông xem đức Phật A Di Đà là tự tâm của mọi người, là pháp thân có mặt khắp nơi như ánh trăng có trên mọi sóng nước của đại dương vào một đêm thu lạnh:
Tâm nội Di Đà tử mạ khu
Đông tay nam bắc pháp thân chu
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt
Sát hải trùng trùng dạ mạn thu.
Việt dịch:
Di Đà vốn thực pháp thân ta
Nam bắc đông tay khắp chói lòa
Trăng thu ngự giữa trời cao rộng
Đêm lặng trùng dương rạng chiếu xa.2
Qua đến Nhân Tông sau khi giao ngôi vua cho Anh Tông, ngài xuất gia theo Phật lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, vân du khắp nơi trong nhân gian để tìm hiểu dân tình và cổ súy Phật pháp. Theo Thánh Đăng ngữ lục chép lại, năm Giáp Thìn 1034, thương hoàng “đi khắp xóm làng để giáo hóa và trừ bỏ các việc thờ cúng bậy, dạy cho thực hành mười điều thiện”3.Ngoài hướng dẫn nhân dân hành thập thiện, chắc chắn ngài khuyến trợ họ hành trì niệm Phật, cũng là tha lực chính đạo ắt được vãng sinh về nước Phật, như thế mới có hiệu quả thay thế cho tha lực tà đạo của các miếu thờ tà bậy được phá bỏ.
Trong giới xuất gia, ở những buổi nhóm chúng vào thời Trúc Lâm, tăng sĩ cũng đã áp dụng phương pháp niệm Phật tập thể. Sách Thiền Đạo yếu học có ghi lại cuộc vấn đáp của Trúc Lâm với vài vị tăng trong khi đại chúng đang thực hành phương pháp niệm Phật trên chính điện4. Đến nay, phương pháp niệm Phật tập thể này vẫn được các sơn môn miền Bắc duy trì trong thời khóa hàng ngày.
Chứng cứ pháp môn Tịnh độ thịnh hành ở đời sau Trúc Lâm còn rõ nét hơn, qua việc vua Anh Tông nhân ngày lên làm Thái thượng hoàng đã cho đúc tượng đồng ba vị Phật Di Đà, Thích Ca và Di Lặc, mỗi tượng cao 17 thước ta5. “A Di Đà Phật” trở thành câu chào hỏi phổ biến của hầu hết Phật tử miền Bắc, hậu duệ đích tôn của Phật giáo Trúc Lâm xa xưa. Tại sao chúng ta không cảm nhận được cái quốc hồn quốc túy này là một trong những thành tố truyền thống của Phật giáo Trúc Lâm, bởi tinh thần Trúc Lâm là tổng hợp và dung nạp vô ngại? Chẳng những thế, vào thời kỳ thiền học Trúc Lâm bị mai một bởi giặc xâm lăng và thiếu vắng người kế thừa, pháp môn niệm Phật vẫn tồn tại xuyên suốt, đảm nhận trọng trách lưu giữ di sản tinh thần của Phật giáo Trúc Lâm xưa, làm mạng mạch duy trì, phục hưng Phật giáo Trúc Lâm cho đến ngày nay và mãi mãi.
Mật giáo đi vào Phật giáo Trúc Lâm
Sau thời kỳ phát triển rực rỡ, thiền học của các vua đầu nhà Trần dần dần lắng xuống. Kể từ đầu thế kỷ XIV, để củng cố và phổ biến Phật giáo Trúc Lâm, các vua và thiền sư đời sau có xu hướng đưa thêm Mật giáo vốn đã rất thịnh từ đời Lý vào hệ thống học thuyết Trúc Lâm. Mật giáo được phát triển trở lại từ thời Anh Tông và Pháp Loa, nổi bật trong xu hướng này là thiền sư Huyền Quang.
Năm 1318, vua Anh Tông xuống chiếu đi tìm vị tăng sĩ Ấn Độ tên là Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi về dịch một cuốn kinh Mật giáo tên là Bạch tán thần chú. Pháp Loa để tâm rất nhiều vào việc trì chú, như trong Tam tổ thực lục nói “Sư thường ngày đêm trì chú lễ Phật”. Ông cũng có phân tích một kinh văn có khuynh hướng Mật giáo gọi là Kim cương trường đà la ni khoa chú. Vua Anh Tông, Văn Huệ Vương, Uy Huệ Vương và nhiều người khác đã được thiền sư Pháp Loa làm lễ quán đỉnh, một nghi thức của Mật giáo.
Ảnh hưởng Mật giáo thời Trúc Lâm không hẳn từ Lạt Ma giáo Tây Tạng, dù rằng thời này đã có nhiều tăng sĩ Ấn Độ như Bồ Đề Thất Lý và Tây Tạng như Du Chi Bà Lam đến sinh sống và truyền giáo tại Đại Việt. Mật giáo thời Trúc Lâm là sự đan xen của tam pháp ấn Thiền – Tịnh – Mật trong phương pháp hành trì, tương tự phương pháp của ngài Vĩnh Minh Diên Thọ ở Trung Hoa, trì chú đồng thời với phương pháp niệm Phật và tọa thiền. Còn Mật giáo Tây Tạng thì trực tiếp trì chú làm công năng hành trì chính. Từ thế kỷ XIV trở đi, trong thiền môn đã sử dụng các thần chú Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, Đại Bi Tâm Đà La Ni và mười bài thần chú ngắn được đưa vào trong thời khóa tụng niệm buổi sáng, áp dụng trong thiền môn cho tới ngày nay. Truyện Tổ Gia Thực Lục có nói tới buổi tụng kinh của Huyền Quang và đại chúng vào canh ba. Đây chắc chắn là một trong các thời khóa tụng niệm, trong đó yếu tố Tịnh độ và Mật giáo đã trở thành quan trọng6.
Thiền sư Huyền Quang là người chế tạo ra đài Cửu Phẩm Liên Hoa ở chùa Tư Phúc – Côn Sơn, chùa Ninh Phúc – Bắc Ninh (tức chùa Bút Tháp). Tòa Cửu Phẩm này là một cái tháp có thể xoay vòng trong khi niệm Phật và trì chú. Tháp xoay có chín tầng và tám mặt. Mỗi mặt của tầng dưới chạm nổi hình ảnh sự tích Phật, trong đó có hình Cực Lạc Thế Giới và đức Phật A Di Đà. Ngày nay ta còn thấy các tòa Cửu Phẩm này còn ở chùa Cửu Phẩm – Hải Dương, trú xứ của thiền sư Chân Nguyên (1647-1726), một hậu duệ của thiền phái Trúc Lâm7. Vậy thì không chỉ có thiền sư Huyền Quang làm tòa Cửu Phẩm, mà các thế hệ tăng sĩ thiền sư đời sau đã vẫn tiếp nối truyền thống tu học này. Hình ảnh chiếc tháp xoay là minh chứng cho ảnh hưởng Mật giáo Tây Tạng đã truyền đến và được dung nạp vào hệ thống Phật giáo Trúc Lâm.
NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU
Sự hợp nhất các thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường quy về một mối Phật giáo Trúc Lâm, là cách dụng công đồng hành của các thiền sư nhà Trần trong công cuộc giữ nước bảo vệ độc lập dân tộc bằng hành động nhập thế tích cực của Phật giáo Trúc Lâm, tiêu biểu cho sự thống nhất qua bao thăng trầm lịch sử của Phật giáo Việt Nam. Ngoài tư tưởng Thiền học sáng chói, Phật giáo Trúc Lâm còn có những giá trị khác để trở thành linh hồn của Phật giáo Việt Nam mà ai ai cũng tự mình là con cháu của Trúc Lâm Tổ sư.
Giá trị dung hợp vô ngại
Phật giáo thời Trần mạnh mẽ và lan tỏa rộng rãi nhờ sự hỗ trợ và cổ súy của triều đình, bắt nguồn từ các vua Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông đều rất giỏi về Phật học. Trong đó, thời đại Nhân Tông là thời đại mà Phật giáo hưng thịnh đến cực độ. Họ nhiệt tâm ủng hộ Phật giáo chính vì họ là Phật tử, mặt khác cũng là để liên kết nhân tâm trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong thời Trần, tinh thần dung hợp và tự do chủ yếu. Không bao giờ có chuyện chống đối và chỉ trích Nho giáo cùng Lão giáo. Mặc dù là hệ tư tưởng chủ đạo, nhưng Phật giáo đã để cho Nho giáo và Lão giáo tự do phát triển. Chính những Phật tử thuần thành nhất như Thái Tông và Thánh Tông đã mở rộng Nho giáo. Năm 1253, Thái Tông lập Quốc Học Viện ở kinh đô và tạc tượng Chu Văn An, Khổng Tử, Mạnh Tử cũng vẽ tranh 72 vị tiền hiền để thờ cúng. Thánh Tông còn cho hoàng đệ là Trần Ích Tắc mở trường dạy Nho học. Tổ chức các khoa thi năm 1232, 1247 để kén chọn nhân tài. Triều đình đãi ngộ nhân tài và sĩ phu rất kính cẩn cho nên người giỏi xuất hiện rất nhiều và sự học phát triển rất rộng. Lê Quý Đôn đã nhận xét trong Kiến văn tiểu lục: “Bởi vì nhà Trần đãi kẻ sĩ một cách khoan dung, không hẹp hòi, hòa vị mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn vĩ vượt ra ngoài lưu tục, làm quang vinh cả sử sách, không thẹn với trời đất, há phải đời sau kịp được đâu”9.
Giá trị tích cực của từ bi nhập thế
Tinh thần từ bi và khoan dung của đạo Phật không phải là đồng hành với nghĩa tiêu cực và quên lãng thế sự. Điều này có thể minh chứng qua Hội Nghị Diên Hồng do Trần Nhân Tông triệu tập đã nói lên được sự đồng tâm nhất trí của vua dân thời ấy. Quyết nghị đồng thanh “Đánh” là tiếng nói của ý thức tự chủ và tinh thân tự cường tự lực của dân tộc Việt. Đó cũng là thể hiện tính thống nhất trên dưới một lòng của Phật giáo nhập thế đời Trần.
Năm 1362, vua Minh Tông ngự ở Phủ Thiên Trường, ra cáo thị hễ trong nhân dân ai có đói và bệnh thì có thể đến đấy để xin hai viên thuốc Hồng Ngọc Sương do triều đình chế tạo với hai quan tiền và hai thăng gạo. Những năm mất mùa, nhiều người mắc bệnh, triều đình hay khuyến cáo những nhà giàu dâng thóc gạo để triều đình phát chẩn cho dân nghèo, và ban tước phẩm cho những nhà giàu dâng thóc gạo.
Việc làm của những vị vua nhà Trần tuy đều sử dụng tiềm lực Phật giáo làm chính trị để liên kết nhân tâm, nhưng không vì vậy mà giả danh là Phật tử. Họ là những Phật tử chân chính và đều có ý nguyện phụng sự đạo Phật song song với việc phụng sự quốc gia và triều đại của họ.
ĐÚC KẾT QUAN ĐIỂM
Phật giáo đời Trần là một yếu tố liên kết nhân tâm quan trọng. Tinh thần Phật giáo đã khiến cho các nhà lãnh đạo áp dụng những chính sách bình dị, thân dân và dân chủ. Chính Nhân Tông đã sử dụng được tiềm năng của Phật giáo để phục vụ cho chính trị quốc gia và khiến cho Phật giáo Trúc Lâm trở nên một lực lượng tôn giáo hùng mạnh yểm trợ cho triều đại.
Bởi thế, để củng cố triều dại và phù hợp lòng dân, tông chỉ tam pháp ấn Thiền – Tịnh – Mật được phổ cập hóa trong giới tăng lữ để dẫn dắt các tầng lớp nhân dân dễ dàng trong việc hành trì các phương pháp phổ biến, chứ không chỉ có tư tưởng thiền học cao siêu ở tầng lớp tăng sĩ và trí thức vương tôn mới hội đủ yếu tố tham học được.
Dựa trên tính chất đặc thù của Phật giáo Trúc Lâm như đã phân tích trên đây, chúng tôi thiết nghĩ các nhà hoạch định phát triển Phật giáo Trúc Lâm nên để tâm và các giá trị khác ngoài Thiền học vốn đã tồn tại vững bền trong lòng người dân và Phật tử miền Bắc rất lâu đời. Đây mới chính là nét văn hóa riêng, là phong tục lễ hội tín ngưỡng đặc thù của nước nhà, song hành cùng nền tín ngưỡng bản địa truyền thống mà không hề chống trái, gây trở ngại cho nhau. Chỉ khi nào, mọi ứng dụng cốt lõi của những giá trị khác ngoài Thiền học của Phật giáo Trúc Lâm được đưa vào phát triển hài hòa trong thực tiễn ngay trên vùng đất lịch sử Quảng Ninh, với các di chỉ Phật giáo Trúc Lâm ở Yên Tử – Quỳnh Lâm – Mạo Khê – Côn Sơn v.v. thì khi ấy cái nhìn đúng và toàn diện về Phật giáo Trúc Lâm phổ cập mới thật sự phát huy tính năng. Và cũng chỉ đến khi ấy, du khách khi tìm về đất địa linh này mới cảm nhận cái hồn của Phật giáo Trúc Lâm.
Chú thích
1 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, tr 489.
2 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, tr 489.
3 Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB TP. HCM 2000, tr 200.
4 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, tr 491.
5 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, tr 407.
6 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, tr 494.
7 Ta Bà Ha, Thiền và Tịnh độ trong mạch sống dân tộc, 1995.
8 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, tr 495.
9 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, tr 501.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB TP. HCM 2000
2. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học, Hà Nội 1994.
3. Vân Thanh, Lược Khảo Phật giáo sử Việt Nam, Tác giả XB, Sài Gòn 1974.
4. Thích Đức Nghiệp, Đạo Phật Việt Nam, NXB TP. HCM 1995.
5. Nguyễn Tài Thư, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội 1991.
6. Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, NXB TP. HCM 1997.