Bàn việc thỉnh oan gia trái chủ và dâng sao giải hạn (p2) – “Dâng sao giải hạn hay Lễ cầu an?”
3.Dâng sao giải hạn hay Lễ cầu an
Hàng năm vào ngày rằm tháng giêng thường gọi là Lễ Thượng Nguyên, đa số người Việt Nam chúng ta thường cúng sao tại chùa hay tại nhà để cầu giải trừ tai ương, tật bệnh trong năm. Trong nghi lễ Phật giáo thường gọi là Lễ Dược Sư Nhương tinh giải hạn, và dân gian gọi tắt là lễ Dâng sao giải hạn. “Nhương tinh” (攘星) là “Dâng sao”; “hạn”) (限) là khoảng thời gian được xác định từ điểm này đến điểm khác, có điểm khởi đầu (khởi hạn) và điểm kết thúc (hết hạn), như vậy tùy theo tuổi, có hạn tốt hay hạn xấu. “Dâng sao giải hạn” hay “Nhương tinh giải hạn” là dâng cúng sao để cầu được hóa giải hạn xấu trong năm, trong tháng, hoặc khi có nhu cầu.

Từ xa xưa, các nước phương Đông coi nghiên cứu qui luật vận hành các vì tinh tú, phong thủy và mệnh số là một môn khoa học dự báo, là sự tổng kết kinh nghiệm từ trong thực tiễn lâu dài và là nét văn hoá đặc trưng. Vì thế, khi Phật giáo du nhập vào đã chịu ảnh hưởng không nhỏ. Nhiều nhà sư tinh thông thiên văn, tướng số và phong thủy, vận dụng kiến thức trên chỉ như là phương tiện, là biện pháp tối ưu để góp phần cải tạo hoặc bồi đắp thêm cái “nghiệp bản hữu” và tăng trưởng “nghiệp tân huân”, tạo nên nghiệp tốt cho đời này và đời sau, chứ không phải là cứu cánh. Xấu tốt đều do chính mình tạo ra và chịu trách nhiệm chứ không hoàn toàn do “tuổi hạn” quyết định”.
Có thể nói, tín niệm thờ phụng tinh tú, nghi thức cúng sao giải hạn, không chỉ có mặt đậm nét trong những bản kinh thuộc Mật tông, mà còn thấy trong những bản kinh Đại thừa lớn, như: Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát cập chư tiên sở thuyết cát hung thời nhật thiện ác tú diệu kinh, 2 quyển, do Tam tạng Sa-môn Bất Không dịch, nội dung mô tả Nhị thập bát tú, các vì sao trong mỗi tháng, cách thức chọn ngày, chọn giờ, lịch tốt xấu…; Bắc đẩu thất tinh niệm tụng nghi quĩ, 1 quyển, do Tam tạng Kim Cương Trí dịch (671 – 741, thuộc dòng dõi Bà-la-môn, Nam Ấn, đến Lạc Dương năm Khai Nguyên thứ 8, Sơ tổ Mật giáo Trung Quốc), nội dung đề cập Bát tinh chú và tán thán những ai thường xuyên trì tụng chú này; Xá Đầu Gián thái tử Nhị thập bát tú kinh, do Tam tạng Trúc Pháp Hộ dịch (? – ?, người nước Nguyệt Chi, hoạt động mạnh và thời Tấn (313 – 316), Ngài đã dịch nhiều kinh điển Đại thừa, như Thủ Lăng Nghiêm, Duy Ma Cật, Vô Lượng Thọ, Pháp Hoa…), mô tả chi tiết về 28 vị sao, về chuyện tiền thân Đức Phật và tín niệm thờ phụng tinh tú…
Trong kinh Du già tập yếu Cứu A-nan Đà La Ni diệm khẩu qũy nghi (do Bất Không dịch sang chữ Hán, Quảng Minh dịch sang tiếng Việt), Đức Phật dạy tôn giả A-nan: “Hãy phát tâm rộng lớn vì cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, khắp vì muôn loại chúng sanh ở tinh tú thiên tào, âm ty địa phủ, Diêm ma quỷ giới, côn trùng nhỏ nhít máy động, tất cả hàm linh mà bày ra sự cúng dường vô giá quảng đại, mời đến phó hội, để nương oai quang của Phật, gột rửa ruộng thân, được lợi thù thắng, hưởng vui nhân thiên.”
Như vậy đã rõ, tín niệm về các vi tinh đã có trong rất nhiều kinh tạng Phật giáo. Hơn nữa, công năng của kinh, chú Phật giáo thường dùng cũng như sự linh nghiệm hữu cầu tất ứng của chư Phật và chư Bồ Tát là theo đại nguyện của các Ngài, như: Cứu chữa bệnh tật của Đức Phật Dược Sư; Đức Phật A-di-đà được tôn xưng là Vô Thượng Y Vương, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang; Bồ-tát Quan Thế Âm; Bồ-tát Địa Tạng v.v., với đại nguyện rộng lớn, có cầu đều được đáp ứng. Mặt khác, trong Lục đạo cũng có một đạo thường hay quấy nhiễu chúng sinh, đó là các vị A-tu-la, nên chư Phật và Bồ-tát mới hóa thân để cứu chúng sinh và hộ trì Phật Pháp vì lòng đại từ, đại bi của chư Phật.

Vấn đề cốt yếu ở đây là nội dung, nghi thức và hiệu năng của nghi thức này. Cùng đối tượng cầu và lễ là các vì tinh tú, nhưng với Đạo giáo đó là công việc của Đạo sĩ, có “nghi” và “lễ” với theo hệ thống giáo lí chặt chẽ rõ ràng nghiêm mật theo Hành sao học của Đạo gia, trọng tâm đặt nơi lòng tin, thiên về quyền uy của pháp thuật và sự van vái cầu xin của tín chủ. Phật giáo quan niệm, nghi lễ là sự tác pháp, do đó, cung hành không đúng với nghi lễ Phật giáo là sai chính pháp, không đạt được mục đích tối hậu của Phật giáo là đem lại an lạc cho chúng sinh.
Người Phật tử hiểu rằng, muốn có kết quả cho những lời cầu nguyện của mình thì chính mình phải qui hướng về chính pháp, năng tu thiện làm việc phúc, sám hối, tụng kinh, niệm Phật. Nó hoàn toàn xa lạ với tư tưởng và hành vi mua chuộc, hối lộ Thần Thánh để hy vọng thỏa nguyện vọng của mình. Nếu hiểu “hạn” là kết quả của “nghiệp”, với tín niệm và thực hành đúng chính pháp, cầu sự giúp đỡ của tha lực là sự hộ trì của Chư Phật, Bồ-tát, Chư Hiền Thánh Tăng… thì “giải hạn” thực chất là “chuyển nghiệp”, là phương tiện để độ đời, an bình thân tâm, tiêu tai báo nghiệp một cách khế lí khế cơ. Trên phương diện Hoằng pháp, dùng kinh và nghi lễ Phật giáo cúng sao giải hạn theo đúng chính pháp cũng là dịp để Phật tử đến chùa nghe kinh kệ, dần hiểu đạo lí: Nếu gặp sao xấu – hạn xấu thì năng làm lành tránh ác, đi chùa tụng kinh niệm Phật, bố thí cho người nghèo khó, làm nhiều việc thiện công đức… thì tai ách sẽ thuyên giảm, tiêu trừ.

Hiện nay, cùng với những cơ chế và biện pháp giáo dục tích cực, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, chúng ta đang cố gắng xây dựng để có được một lối sống – đạo đức mới tiên tiến – đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Việc Cúng sao cầu an giải hạn đúng chính pháp của Phật giáo chắc chắn không những không trái với mục tiêu chung đang hướng tới, mà còn góp phần tích cực có hiệu quả trong việc bài trừ mê tín dị đoan, định hướng và từng bước xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hướng thượng lành mạnh.
Kết luận
Phật giáo là một hệ thống triết học – luân lí đạo đức và lối sống, nhưng trước hết là một tôn giáo. Không biết tại sao và từ bao giờ người ta vẫn nói và viết một cách rất mơ hồ rằng Phật giáo là một tôn giáo vô thần. Điều này đã gây ra ngộ nhận, rồi phê phán niềm tin và những hành nghi của Phật giáo một cách tùy tiện. Sẽ là sai lầm cơ bản khi hiểu nghĩa “vô thần” ở đây là: không tin vào thần thánh, không tin vào thế giới tâm linh… mà chỉ tin vào những gì đã được kiểm chứng trong thực tiễn hoặc “khoa học đã chứng minh được”, tức là quan điểm “vô thần thực dụng”. Trong nghiên cứu Phật giáo, khoa học chân chính hiểu “vô thần” (aitheism) có nghĩa là: không tin có một lực lượng thần thánh toàn năng, toàn thiện, có thể tạo nên và sai khiến vạn vật, cũng như có quyền cứu vớt hay phạt tội đối với con người.
Theo giáo lí nhà Phật, thế giới con người hiện tồn chỉ là một trong mười pháp giới thuộc dục giới, trong vô lượng tam thiên thế giới. Pháp sự Thỉnh vong giải oan gia trái chủ và Dâng sao giải hạn cầu an đúng chính pháp là pháp phương tiện trong muôn vàn pháp phương tiện khác của Phật giáo, trong nó hàm chứa những tư tưởng cốt tủy của giáo lí Phật giáo cũng như những giá trị nhân văn sâu sắc, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Pháp Thỉnh vong giải oan gia trái chủ tự bản thân nó đã có ý nghĩa khuyến thiện lợi tha, phù hợp với đạo lý truyền thống người Việt và đúng chính pháp Từ Bi (cứu mọi người bị chìm đắm đau khổ), Hỉ Xả (hóa giải mọi oán thù), và Trí Tuệ (phá trừ vô minh là con đường duy nhất đúng đắn để tự chuyển nghiệp, giải thoát). Ngay với đạo lí – tâm lí thông thường, đây là một phương thức trị liệu tâm lí rất cần thiết và hiệu quả cho người sống: Làm tròn bổn phận với người chết mà trước đây mình không có điều kiện hoặc vô tâm; Tự tâm hóa giải những ân oán khúc mắc mà thuở còn sống không làm được; Khắc phục sự ám ảnh dằn vặt trong chính mình để sống thanh thản hơn, sống tốt hơn. Với ý nghĩa đó, pháp sự này không ngoài mục đích bao quát nhằm đạt tới là Âm siêu dương thái.
Nếu có việc lợi dụng Phật giáo để hành nghề mê tín dị đoan trục lợi lại là vấn đề khác. Bằng giáo luật của Giáo hội, pháp luật của Nhà nước và dư luận xã hội, cần phải nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật và Giáo luật. Tuy nhiên, chúng ta đã có bài học trong Lịch sử triết học: khi Phơ-bách đứng trên lập trường triết học duy vật đã phê phán triệt để toàn bộ hệ thống triết học duy tâm của Hê-ghen mà không nhận thấy giá trị hợp lí của phép biện chứng trong đó, Ăng-ghen từng phê phán: Ông Phơ-bách, khi ông hắt nước bẩn trong chậu nước thì đồng thời cũng hắt luôn cả thằng bé ngồi trong chậu nước đó.
CS.QUẢNG TUỆ