Giới thiệu Luận Nhiếp Đại Thừa

 I. Khái quát

1. Các bản dịch

Sau khi Phật diệt độ khoảng 900 năm, Tây Bắc Ấn có 2 vị Thánh Tăng ra đời, ngài Vô Trước (Asaga) và ngài Thế Thân (Vasubandhu), tạo luận để hoằng dương giáo nghĩa Du-già1. Ngài Vô Trước trước tác rất nhiều luận thư, trong đó có Nhiếp Đại thừa luận, bao hàm toàn bộ hệ thống Du-già. Nhiếp có nghĩa là tổng trì, bao gồm, bao quát. Đại thừa tức giáo nghĩa của Đại thừa. Luận thư đưa ra 10 điểm thù thắng để bao quát tất cả các pháp Đại thừa. Ngài Vô Trước tạo luận Nhiếp Đại Thừa để xiển dương: giáo, lý, hành, quả của Du-già tông. Bản tiếng Phạn của luận và luận thích đã được dịch sang tiếng Hán. Luận được các ngài: Phật-đà-phiến-đa (Buddhanta), Chân Đế (Paramrtha), Huyền Trang dịch sang tiếng Hán. Có 2 bản luận thích, một của ngài Thế Thân và một của ngài Vô Tính (Asvabhva) cũng được ngài Chân Đế. Cấp-đa (Gupta), Huyền Trang dịch sang tiếng Hán. Trong các bản dịch, bản dịch của ngài Chân Đế chưa chuẩn xác, thiếu trung thực. Bản dịch của ngài Huyền Trang chuẩn xác hơn. Cũng chính vì sự không chuẩn xác, khó hiểu của các bản dịch trước, một trong những nguyên nhân, đã khiến ngài Huyền Trang khổ tâm trong tham cứu, nên ngài đã quyết tâm sang Ấn Độ đê tham học mong tìm hiểu bản văn gốc của các kinh điển được dịch sang tiếng Hán chưa rõ nghĩa.

2 . Sự hình thành tông Nhiếp Luận

Sau khi hòan tất bản dịch tiếng Hán của bộ luận Nhiếp Đại thừa, ngài Chân Đế đã thành lập tông Nhiếp Luận. Điểm đặc sắc của tông Nhiếp Luận là ngoài sự chấp nhận 8 thức truyền thống của Du-già còn chủ trương thức thứ 9, thức A-ma-la. Ngài Chân Đế xác nhận rằng A-lại-da thức là vọng thức, chỗ nương tựa của tất cả hiện tượng. Trong thức này có một phần tịnh. Phần tịnh này chính là thức thứ 9. A-ma-la thức thanh tịnh, vô cấu, cho nên còn được gọi là vô cấu thức. Đây chính là tịnh thức, và thực tế chính là chân như Phật tính. Chúng sinh tu tập phát triển phần tịnh của a-lại-da thức để đối trị phần hư vọng, phần nhiễm, như vậy mới có thể chứng đắc a-ma-la thức. Đây chính là điểm khác biệt của Nhiếp Luận tông của ngài Chân Đế và Pháp tướng tông của ngài Huyền Trang. Sự xác lập a-ma-la thức thực ra khẳng định tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể thành Phật. Duy Thức của ngài Huyền Trang phủ định thức thứ 9. Ngài Huyền Trang cho rằng phần nhiễm trong thức thứ 8 khi chuyển thành tịnh thì thức này gọi là vô cấu thức, vô cấu thức không phải thức thứ 9. Sau này đệ tử của ngài Huyền Trang, ngài Khuy Cơ, lại phê phán học thuyết thức thứ 9 của ngài Chân Đế. Như vậy Nhiếp Luận tông của ngài Chân Đê’ và Duy thức Pháp tướng của ngài Huyền Trang đều thuộc Du-già tông của Ấn Độ. thế nhưng có một vài điểm dị biệt. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là do dòng truyền của ngài Chân Đế phát triển sớm hơn so với ngài Huyền Trang. Dòng truyền của ngài Huyền Trang trải qua nhiều thế hệ phát triển. Do vậy sự dị biệt không thể tránh khỏi giữa 2 dòng truyền này.

3. Học thuyết phán giáo của ngài Chân Đế

Ngài Chân Đế (499-569) người Tây Thiên Trúc, vào thời Lương Võ Đế, niên hiệu Đại Đồng năm 12, đến Quảng Châu bằng đường biển. Trong hơn 20 năm tiếp theo ngài dịch trên 60 bộ kinh, luận. Ngài trở thành một trong 4 đại dịch giả ở Trung Quốc. Trong số những kinh luận đã được dịch đó có rất nhiều trước tác của Du-già tông, nhưng quan trọng nhất là Nhiếp Đại thừa luận của ngài Vô Trước và Nhiếp Đại thừa luận thích của ngài Thế Thân. Ngài Chân Đế khi dịch Nhiếp Đại thừa luận có trước tác một tác phẩm tên là Nhiếp Đại thừa luận nghĩa sớ. Rất tiếc là tác phẩm này bị thất lạc. Ngài Chân Đế đã khai sáng ra Nhiếp Luận tông và hình thành quan điểm phán giáo. Tông Nhiếp Luận được thừa truyền mấy thế hệ rồi suy tàn. Quan điểm phán giáo, gồm: Tam pháp luân, Tứ giáo, Tiệm Đốn nhị giáo.

1. Tam pháp luân

Chủ trương này được tìm thấy trong Giải Tiết Kinh Sớ của ngài Chân Đế, Như Lai thấy căn cơ của chúng sinh khác nhau nên chia thời gian ra làm 3 giai đoạn thuyết pháp:

a. Thời kỳ thứ 1 là Tứ đế Pháp luân, sau khi thành đạo, Phật đến vườn Lộc Uyển, nước Ba-la-nại thuyết nghĩa lý Tứ đế để hoá độ hàng Thinh Văn. Thời pháp này chỉ nhằm khai diễn kinh nghĩa chưa cứu cánh. Do vậy còn có vấn nạn và nhiều tranh luận.

b. Thời kỳ thứ 2 là Chuyển pháp luân, sau khi thành đạo 7 năm, ở tại vườn Cấp-cô độc, nước Xá-vệ, đức Phật vì hàng tu hành Đại thừa mà diễn thuyết đạo lý: tất cả pháp không có tự tính, không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng, bản tính và niết-bàn xưa nay không khác. Thời này bày tỏ sự khác biệt giữa giáo lý Đại thừa và Nguyên Thủy. Tiêu biểu những kinh của thời này là Bát-nhã, Thập địa.

c. Thời kỳ thứ 3 là Vô phán biệt tướng luân, sau khi Đức Phật thành đạo 38 năm, trước khi nhập diệt 7 năm, tại Quỉ Vương pháp đường, nước Tỳ-xá-ly, Phật vì muốn hàng Bồ-tát có thể lĩnh ngộ giáo chỉ chân thường, nên ngài diễn thuyết: tất cả pháp là không có tự tính, không sinh không diệt, nguyên lai không tịch, bản tính và niết- bàn không khác. Đức Phật vì cứu độ, giáo hoá Tam thừa cho nên có nói ra giáo nghĩa Nguyên Thuỷ, Đại thừa bất đồng. Kỳ thật giáo nghĩa này chỉ quy nhất không có phân biệt. Thời này diễn thuyết giáo nghĩa cứu cánh không dẫn đến vấn nạn và tranh luận. Tiêu biểu những kinh của thời này là: Giải thâm mật, Pháp hoa, Duy ma.

Căn cứ theo bản dịch bộ Chấp Dị Luận Ký của ngài Chân Đế thì Tam pháp luân

– Tiểu Thừa Pháp luân: Thời này diễn thuyết Tiểu thừa giáo, Tam tạng Thánh điển Tiểu thừa

– Đại thừa Pháp luân: Thời này diễn thuyết Đại thừa giáo, nói rõ những bất đồng của giáo nghĩa Đại thừa cùng Tiểu thừa, tiêu biểu như kinh Niết-bàn.

– Nhất thừa Pháp luân: Thời này diễn thuyết giáo nghĩa Nhất thừa, dung thông Tiểu thừa và Đại thừa, như kinh Hoa Nghiêm, Bát-nhã.

2. Tứ giáo

Tứ giáo bao gồm:

a. Tứ đế Pháp luân: Kinh A-hàm, diễn thuyết đạo lý Tứ đế

b. Vô tướng Đại thừa: Bát-nhã, diễn thuyết đạo lý vô tướng, tính không

c. Pháp tướng Đại thừa: Kinh Lăng già, diễn thuyết giáo lý: tướng, phân biệt, chính trí, chân như, mê ngộ, 8 thức…

d. Quán hạnh Đại thừa: Kinh Hoa Nghiêm, diễn thuyết lịch trình tu chứng của Bồ-tát 42 địa vị: Thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, Đẳng giác, Diệu Giác.

3. Tiệm, Đốn

a. Tiệm giáo: tiêu biểu là kinh Niết-bàn, bao gồm giáo nghĩa Tam thừa. Chúng sinh căn tính không đồng cho nên trước phải thông hiểu giáo lý Nguyên thủy sau đó mới có khả năng tiếp nhận giáo lý Đại thừa. Do vậy cho nên có tiệm giáo, tiệm giáo bao quát Tam thừa.

b. Đốn giáo: tiêu biểu kinh Hoa nghiêm, giáo lý dành cho hàng Bồ-tát. Căn tính của các vị Bồ-tát đốn ngộ không cần trải qua tu tập giáo lý Nguyên thủy rồi đến Đại thừa.

Qua nội dung phán giáo trên, chúng ta có thể nói ngài Chân Đế lấy Tam pháp luân làm trọng tâm phán giáo. So sánh với hệ thống phán giáo của các tông khác ở Trung Quốc, hệ thống phán giáo của ngài Chân Đế có những điểm khác biệt.


Tượng ngài Thế Thân (Agasa)

4. Y cứ của Nhiếp Đại thừa luận

10 thù thắng của luận không phải của ngài Vô Trước sáng chế ra. Như mở đầu luận ngài Vô Trước nói: “Trong kinh Đại thừa A-tỳ- đạt-ma có 10 tướng thù thắng…” và cuối luận: “Phẩm “Nhiếp Đại thừa” trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tôi A-tăng-già (Vô Trước) lược thích đã xong”. Như vậy ngài Vô Trước đã khẳng định cơ sở kinh mà ngài nương tựa để trước tác bộ luận này. Kinh Đại thừa A- tỳ-đạt-ma có một phẩm tên là “Nhiếp Đại thừa”, phẩm này có nói đến giáo nghĩa 10 loại thù thắng. Ngài Vô Trước y cứ vào phẩm này để tạo luận. Cho nên gọi là Nhiếp Đại thừa luận. Xem xét nội dung của luận, chúng ta thấy ngài Vô Trước lược thích nhưng không phải theo kiểu chú sớ chỉ giới hạn trong một kinh. Ngài trích dẫn nhiều kinh, luận như: kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Giải Thâm Mật, Phương Quảng, Luận Du- già, Đại thừa Trang nghiêm kinh, Biện Trung Biên… Có thể nói Nhiếp Đại thừa luận là tác phẩm thuộc Du-già tông đề cập rất chi tiết nhất về A-lại-da thức (laya-vijana).

II. Nội dung Luận thư

Trong các bản dịch bản dịch thời Ngụy (Phật-đà- phiến-đa) không có chia ra phẩm, chương. Bản dịch đời Trần (Chân Đế) và đời Tuỳ (Cấp-đa) có chia ra làm 10 phẩm, mỗi phẩm lại phân làm chương. Bản dịch đời Đường (Huyền Trang) chia làm 11 phẩm, không có chia chương. Đây là bản dịch của ngài Huyền Trang, bản dịch đời Đường. Luận chia ra làm 11 phẩm:

1. Tổng tiêu cương yếu phần

Phẩm này giống như một dàn bài đại cương của bộ luận. Nó đề cập tất cả 10 vấn đề chính yếu, thù thắng của Đại Thừa so với Thinh Văn, khẳng định Đại thừa do Phật thuyết.

2. Sở tri y phần

Sở tri tức các pháp, y tức y cứ, cơ sở, căn cứ. Phẩm bàn về nơi nương tựa, y cứ của các pháp, nơi giúp các pháp khởi, tức chỉ cho a-lại-da thức. Chính do a-lại-da mà có sinh tử hay niết-bàn. Nó có 3 đặc tính. Tính chất của a-lại-da cũng được các kinh đề cập. Thông qua phẩm này Nhiếp Đại thừa luận đã thiết lập khái niệm a-lại-da.

3. Sở tri tướng phần

Sở tri tướng tức pháp tướng. Pháp tướng tuy có vô số loại nhưng không ngoài 3 tự tướng: y tha khởi, biến kế chấp, và viên thành thật. Phẩm này giải thích về thể tướng của 3 tướng (y tha, biến kế, viên thành), danh nghĩa của 3 tướng, sự giống nhau và khác nhau của 3 tướng, phẩm loại của 3 tướng, giải thích về các câu hỏi lịên quan 3 tướng, đề cập đến khế kinh nói về 3 tướng.

4. Nhập sở tri tướng phần

Nhập-sở tri tướng tức là ngộ nhập y tha khởi, biến kế chấp, và viên thành thật. Đây cũng chính là ngộ nhập thật tính duy thức. Phẩm giải thích rõ đối tượng ngộ nhập, phương cách ngộ nhập, tiến trình ngộ nhập, ích lợi ngộ nhập…

5. Bỉ nhập nhân quả phần

Phẩm này nói rõ vể nhân quả của sự ngộ nhập. 6 Ba- la-mật làm nhân cho sự ngộ nhập. Phẩm cũng giải thích từng loại ba-la-mật. Các ba- la-mật có công năng loại trừ những phiền não nào. Có thể nói phẩm này chỉ rõ cho hành giả các pháp tu.

6. Bỉ tu sai biệt phần

Mười địa của Bồ-tát được giải thích chi tiết. Công năng của 10 địa đối trị 10 lọai vô minh. Phẩm cũng nói về quá trình tu tập để thành mãn quả vị. Để đạt được 10 địa, Bồ – tát phải có đủ: thâm tín về 10 địa, chính hạnh, thông đạt, thành mãn. Quá trình tu tập vẫn dựa trên pháp tu căn bản, chỉ, quán.

7. Tăng thượng giới học phần

Tăng thượng giới học tức giúp hành giả thấu hiểu được giới luật để giữ gìn. Phẩm này có thể nói là bàn về giới luật tiêu biểu, khái quát về giới của Bồ-tát, cũng như phương tiện khi trì giới. Giới có 4 thù thắng: 1) Chi tiết thù thắng, 2) Học xứ chung với không chung thù thắng, 3) Rộng lớn thù thắng, 4) Sâu xa thù thắng

8. Tăng thượng tâm tuệ phần

Tàng thượng tâm chỉ cho những phương pháp tu tập giúp phát triển tâm, tức định. Phẩm này bàn luận về các loại định, năng lực, uy lực của định. Nhờ những công năng của định mà hành giả đạt được những lợi ích thiết thực ở thế gian và xuất thế gian.

9. Tăng thượng tuệ học phần

Phẩm giải thích tự tính của trí vô phân biệt, tức 16 sắc thái của trí vô phân biệt. Phẩm dẫn nhiều ví dụ để so sánh sự thù thắng của loại trí tuệ này. So sánh trí Thinh văn và Bồ-tát. Tuệ ba-la-mật xa lìa 5 vấn đề: chấp ngã của ngoại đạo, sự phân biệt của Bồ-tát khi chưa thấy chân như, nhị biên của sinh tử và niết-bàn, mừng khi dứt phiền não chướng, an vui niết-bàn không nghĩ đến lợi ích của chúng sinh.

10. Quả đọan phần

Bồ-tát nương vào Tam học đê tu hành chính hạnh. Đây là chính nhân đưa đến chính quả, Phật quả. Quả có 2: 1) đoạn trừ phiền não chướng và sở tri chướng, 2) chuyển 8 thức thành 4 trí. Nhờ tứ trí mà chứng được pháp thân, báo thân và hoá thân, tức đại bồ-đề.

11. Bỉ quả trí phần

Luận về Tam thân Phật, công đức của Tam thân, đại bồ-đề. Bồ đề tức 4 trí. Dụng của 4 trí là hiển bày pháp thân, báo thân và hoá thân.

III. Kết luận

Ngài Vô Trước khai sáng Du-già tông khoảng thế kỷ thứ 4 TL. Nhằm phát triển giáo lý Đại thừa nói chung và nghĩa lý Du-già nói riêng, ngài trước tác nhiều luận thư. Trong các trước tác này có luận Nhiếp Đại thừa. Luận cũng như luận thích được dịch sang tiếng Hán, làm nền tảng cho sự phát triển Địa Luận, Nhiếp Luận và Pháp tướng tông ở Trung Quốc. Nội dung bộ luận giải thích 10 thù thắng của Đại thừa nhằm phản bác những chỉ trích cho rằng Đại thừa không phải là thuyết của Phật. Như vậy luận thư là một sự tranh biện giữa Đại thừa và Nguyên thủy, và khuyên mọi người nên có tâm hướng về Đại thừa.

TT. TS. Thích Giác Hiệp

Chú thích:

1 Du-già tông: được gọi là Thức tông, Thức học (sa.. vijñānavādin), hoặc Du-già hành tông (sa. yogācārin); tại Tây Tạng, người ta cũng gọi là Duy tâm tông (zh. 唯心宗, sa. cittamātrin). Tại các nước Đông Nam Á gọi là Duy thức tông (唯識宗, sa. vijñaptimātravādinyogācārincittamātravādin) (BBT)

(Trích đăng từ Tạp chí Khuông Việt số 2)

Bình luận
Tin cùng chuyên mục