Sự phân phái của Phật giáo thời kỳ đầu (P6)
HT.TS. THÍCH THANH QUYẾT
Phần 1; Phần 2; Phần 3; Phần 4; Phần 5
3. Thực tiễn tu hành của Thượng tọa bộ
Tư tưởng của Thượng tọa bộ, cốt ở gạt bỏ khách trần, khôi phục bản tính. Phương pháp áp dụng giống với Phật giáo nguyên thủy, tức là trước tiên thấy Đạo (kiến Đạo), rồi sau tu đạo. Kiến Đạo là hiểu rõ chân lý của Tứ đế. Tu Đạo tức là tu hành, chủ yếu là bằng thiền định. Thiền định là một phương phương pháp tu Đạo của Phật giáo. Thượng tọa bộ đặc biệt coi trọng phương pháp này, cho nên trong Xá Lợi Phất Kinh, khi bàn đến đặc điểm của Hóa địa bộ, dùng câu “Thiền tu nhập vi, cứu xướng u mật” để hình dung, có thể thấy công phu thiền định của phái này rất sâu. Đối với lý luận thiền định giảng rất tỉ mỉ. Dị bộ Tông luân luật khi nêu chủ trương của Hóa địa bộ cũng nói “Đạo chi đều là niệm trụ nhiếp”. “Đạo chi’ thường là nói 37 phần Bồ Đề, mà Hóa địa bộ dùng niệm trụ (Định) làm trung tâm. Các phần Bồ Đề đều có liên quan đến niệm trụ, có thể thấy đặc sắc của họ là coi trọng thiền định. Lại như trong ‘Đạo phẩm” của Xá Lợi Phất Tỳ đàm, từ một chi Đạo (một con đường) mà tổ chức thành mười một Đạo. Một chi Đạo cùa họ chính là Thân niệm xứ (thân niệm trụ). Thân niệm trụ là niệm trụ thứ nhất trong tứ niệm trụ. Họ coi đây là con đường duy nhất để lý giải. Tức đây cũng có thể thấy họ đối với thiến định quá chú trọng đến mức cực đoan.
Thiền định của họ lại không phải là “Bất động tâm” đơn giản, mà là từ trong thiền định mà nhận thức phân tích và nghiên cứu thêm đối với tâm tính. Sự phân tích của họ đối với quá trình hoạt động tâm lý rất kỹ càng chi tiết. Pháp tu luận của Nam phương Thượng tọa đưa ra 89 loại phạm trù đối với vị trí, giai đoạn, tính chất tốt xấu của tâm phân tích một cách tỉ mỉ. Từ đó lại quy nạp tác dụng tâm lý thường biểu hiện làm 12 tâm. Từ 12 tâm lại khái quát tiếp còn 9 loại, đó là 9 tâm còn gọi là “cửu tâm luân” (bánh xe 9 tâm), chỉ ra 9 loại biến chuyển của tâm đối với đối tượng nào đó, liên tục không dứt, tuần hoàn như bánh xe, cụ thể:
1/ Hòa trong trạng thái bình tĩnh, chưa tiếp xúc đối tượng, không có một tư duy tri giác nào gọi là Hữu phận tâm.
2/ Lúc động niệm sinh ra cảm giác, giống như trạng thái từ trong giấc ngủ mà tỉnh dậy, gọi là Chuyển hướng tâm.
3/ Vì thể theo ngũ căn, có 5 loại tác dụng cảm giác, gọi là Kiến tâm.
4/ Khi đã có dược “kiến” liền đối với cảnh giới mà cảm nhận khổ, vui, gọi là Thụ tri tâm.
5/ Từ đó phân biệt thiện, ác gọi là Phân biệt tâm.
6/ Lại đã an lập được tướng trạng của cảnh giới, gọi là Linh khởi tâm.
7/ Quyết định phát khởi tác dụng như vậy gọi là Tốc hành tâm.
8/ Giả sử cảnh giới mạnh mẽ, liền tiếp tục có tác dụng phân tỉnh hoặc huân tập, gọi là Quả báo tâm.
9/ Từ đây lại khôi phục trở lại trạng thái binh tĩnh, lại gọi là Hữu phận tâm.
“Cửu tâm luân” gồm có 12 tác dụng, nó có thể thể hiện trên một sự việc, cũng có thể thể hiện trên quá trình cuộc đời con người. Con người bắt đầu từ lúc có sinh mệnh, gọi là “kết sinh tâm”, về sau phát triển theo “cửu tâm luân”, mãi đến kết thúc thọ mệnh, gọi là “tử tâm”. Trong khoảng từ “kết sinh tâm” đến “tử tâm”, không biết đã trải qua bao nhiêu vòng luân chuyển “Hữu phận tâm giai đoạn 1 đến Hữu phận tâm giai đoạn 9”. Cho nên cuộc đời con người, chín tâm tuần hoàn vòng đi vòng lại, thẳng đến lúc “tử tâm” thì “Hữu phận tâm” này mới kết thúc. Thượng Tọa bộ coi “Hữu phận tâm” của việc sau khi “kết sinh” là đầu tiên. Coi “Hữu phận tâm” của trước khi “tử vong” là cuối cùng. Lý luận này khiến cho học thuyết của Phật giáo có khuynh hướng “Hữu ngã” (linh hồn). Phật học Nguyên thủy vốn phủ nhận “ngã” có tác dụng chủ thể cuộc đời. Mặc dù không thừa nhận trên lý thuyết, nhưng trên thực tế họ lại ra sức giảng vấn đề “nghiệp lực”, “luân hồi”. Nếu thừa nhận “nghiệp lực, “luân hồi” mà không có “ngã” sẽ giảng không thông.
Vấn đề này khiến cho về sau Độc tử bộ công khai chủ trương có Bổ đặc già la (ngã). Các bộ phái khác áp dụng cách nói biến tướng đi một chút. “Hữu phận tâm” của Thượng Tọa quán triệt sinh tử, trở thành chủ thể giữa sinh tử với nhau cũng là một loại biến tướng của “ngã’. Nam phương thì như vậy. Hóa Địa bộ ở Bắc phương phát triển thành “cùng sinh tử uẩn‘. Hóa Địa bộ chủ trương “chủ hành” (uẩn) có hai phương thức vận hành: Một là, “nhất niệm uẩn” (tức Sát na diệt hành); Hai là, “nhất sinh uẩn” (tức liên tục từ sinh đến tử). Gọi là “nhất sinh uẩn” không chỉ thừa nhận nhất kỳ sinh tử mà thừa nhận còn phải tái sinh, mãi đến mức giải thoát cuối cùng mới kết thúc. Cho nên, chủ trương “sinh tử uẩn” với “Hữu phận tâm” cùa Nam phương hoàn toàn giống nhau, cùng là một sự biến tướng của “ngã”. Học thuyết cùa Thượng Tọa bộ xuất hiện khuynh hướng của “ngã”. Đây là vấn dề mà Phật học nguyên thủy chưa giải quyết dược, và cũng là kết quả phát triển một cách tất yếu phải có để giải quyết bế tắc của Phật giáo nguyên thủy.

Về mặt lý luận giải thoát, Thượng Tọa bộ so với Phật học nguyên thủy có sự phát triển hơn. Phật học nguyên thủy chỉ giảng “nhân ngã không”, Thượng Tọa bộ giảng Không giải thoát môn trong Tam giải thoát môn (tức không, vô tướng, vô nguyện cũng là một phương pháp thiền định) và tiến thêm một bước giảng “pháp vô ngã”. Lý luận này trong các trước tác của Nam phương Thượng tọa có sự thuyết minh rõ ràng. Trong các trước tác của Bắc phương Thượng tọa không được rõ lắm. Thông thường cho rằng Tiểu thừa không giảng “pháp không”, “pháp vô ngã” mà còn lấy cái đó làm tiêu chí để phân biệt giữa Đại thừa và Tiểu thừa. Vẫn đề này có lẽ là bởi những tư liệu của Bắc phương không đầy đủ mà gây ra sự hiểu lầm. Từ “nhân không” đến “pháp không” phải được coi là sự phát triển mới đối với Phật học nguyên thủy.
4. Phương pháp luận của Thượng tọa bộ
Thượng Tọa bộ chủ trương thuyết phân biệt, bản thân họ cũng tự thừa nhận, như Nam phương Thượng Tọa bộ tự xưng là “Thượng Tọa phân biệt thuyết “. Có điều, Bắc phương đối với tính chất này thì rất mơ hồ. Cho nên, ngoài Hóa Địa bộ, Pháp Tạng bộ ra lại lập riêng một danh mục “phân biệt luận giả”. Gần như có một phái riêng. Đặc biệt là trong Bà Sa của Hữu bộ, còn coi nó làm một luận định quan trọng. Do hiểu biết không đủ đối với học thuyết bộ phái, vì thế mọi người còn mơ hồ đối với “phân biệt luận giả”. Từ đó mà xuất hiện các loại kiến giải. Gần đây các học giả đã dùng Bà sa để dẫn 14 chủ trương của “phân biệt luận giả”, so sánh với các bộ phái khác, cho rằng “phân biệt luận giả” là chỉ Hóa Địa bộ. Nhưng nếu nhìn từ Luận sự của Nam phương Thượng Tọa thì thấy: Vừa giống với Hóa địa bộ, lại giống với Ấn Đạt phái. Vì thế họ cho rằng Ấn Đạt phái là thuộc về Đại Chúng bộ. “Phân biệt luận giả là một bộ phận, một cách giải thích của Đại Chúng bộ. Trên thực tế, “phân biệt luận giả” mà Bà sa luận nói đến chỉ là nói phiếm, đương thời thông thường áp dụng đối với thái độ và phương pháp của phân biệt thuyết, và không có chuyện chỉ định một phái nào cụ thể, trong đó vừa có Hóa Địa bộ, vừa có Nam phương Thượng Tọa bộ, thậm chí đối với cả Ấn Đạt phái của Thượng Tọa bộ. Có điều quan hệ giữa Thượng Tọa bộ và “phân biệt luận giả” so với những phái khác mật thiết hơn mà thôi.
(Còn nữa)