Đạo Phật và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam
Ra đời trên đất Ân từ thế kỷ VI trước công nguyên, đến những năm sau công nguyên, đạo Phật đã lan truyền ra nhiều vùng ở Châu á trong đó có nước ta. Những năm đầu công nguyên, Giao Chỉ nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, nơi giao điểm của đường giao thông thủy bộ, từ tây sang đông, từ bắc xuống nam.
Theo những thư tịch cổ như: Nam phương thảo mộc trạng, Quế Hải ngu hành chí, Việt kiệu thư, Thái Bình hoàn vũ ký thì người Việt đã có quan hệ với người Ôtôn (ở vùng tây bắc Ân Độ và một phần Apganixtan ngày nay), người Khang Cư (Sogdiane), Đại Hạ (Bátrian), An Tức (Iran). Theo chân các thương nhân, các nhà sư người Ân đã truyền đạo Phật vào Giao Chỉ từ những năm đầu công nguyên. Đạo Phật được truyền vào nước ta trong bối cảnh xã hội đặc biệt. Người Việt đang sống trong cảnh nước mất, nhà tan. Các tập đoàn phong kiến phương Bắc bằng sức mạnh quân sự, văn hóa, vừa cưỡng bức, vừa thuyết phục, quyết tâm thực hiện âm mưu đổng hóa người Việt. Đạo Phật với tư tưởng từ bị, cứu khổ đã đáp ứng được một phần nhu cầu tinh thần của người Việt. Giáo lý của đạo Phật khá gần gũi với ý thức về nguồn cội, đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây của ngưòi Việt. Người Việt cho rằng vạn vật trong vũ trụ đều có nguồn cội. Cây có rễ, nước có nguồn, chim có tổ, người có tông:
Con người có tổ, có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn
Và:
Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu
Người ta nguồn gốc ỏ đâu?
Có tổ tiên trước rồi sau có mình.
Ý thức về nguồn cội của người Việt có nguồn gốc từ tín ngưỡng Tô-tem giáo (Tô-tem có nghĩa là vật tổ). Vật tổ được coi là tổ tiên cùng huyết thống sinh ra các thành viên thị tộc. Người Lạc Việt thờ chim Lạc vì xem chim Lạc là tổ tiên của mình. Truyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra bọc trăm chứng, nỏ ra trăm người con là cách giải thích về cội nguồn của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta.Ý thức về tổ tiên, về nguồn cội được phát triển ở trình độ cao khi người Việt biết tiếp biến giáo lý của đạo Phật. Từ phương châm giải thoát của đạo Phật: “Tự độ độ tha, tự giác giác tha”, họ ý thức rằng, người sống không phải chỉ cho riêng mình mà còn vì những người khác trong cộng đồng. Cộng đồng có ý nghĩa nhất đối với mỗi người là gia đình. Trong gia đình ông, bà, cha, mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục các thế hệ con cháu. Kinh Phật dạy:
Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha
Nưởc biển mênh mông, không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng, không phủ kín công Cha
Tẩn tảo sớm hôm, Mẹ nuôi con khôn lởn
Mang cả tấm thân gầy, Cha che chở đời con

Công ơn cha, mẹ như trời biển, báo đáp bao nhiêu cũng không đủ. Là con cái, một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ đi suốt 100 năm cũng không đủ để đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha, mẹ. con cái giữ tròn đạo hiếu vói cha, mẹ được Phật xem ngang với Phạm Thiên và cũng xứng đáng được cúng dường.
Những người con hiếu thảo giữ trọn đạo hiếu là những người biết cúng dường cha, mẹ bằng những sản phẩm do sức lao động của mình làm ra. Theo luật nhân – quả, nghiệp báo – luân hổi, con cái có hiếu với ông, bà, cha, mẹ ở cõi này thì kiếp sau được đầu thai vào cõi Trời sung sướng. Còn bạc đãi Cha, mẹ khi chết bị đày xuống cõi âm ty chịu sự đày đọa đau khổ. Do vậy, khi sống phải tu nhân tích đức, làm nhiều điều thiện, tránh điều ác. Ngay cả khi cha, mẹ làm điều ác cũng phải cứu độ, giúp cha, mẹ khỏi bị mê lầm, chấp ngã. Tấm gương Mục Kiền Liên báo hiếu luôn nhắc nhở các thế hệ con cái phải hiếu thảo. Hàng năm cứ vào ngày rằm tháng bảy là các gia đình Phật tử đều tụng kinh Vu Lan tỏ lòng kính hiếu tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ. Hình ảnh công chúa Diệu Thiên trả ơn cha, mẹ bằng cách độ thoát cha, mẹ được hóa thành quả Nam Hải Quan Âm luôn ở trong tâm thức của người Việt. Trong dân gian vẫn lan truyền câu ca: “Trên thời báo hiếu sinh thành, dưới thời nhân cứu chúng sinh ta bà “để ca ngợi lòng hiếu thảo, công cứu rỗi của Bà.
Đạo Phật chủ trương báo đáp “Tứ ân” (ân Phật, ân Pháp, ân Tăng, ân Tổ tiên). Phật dạy, trước khi là đệ tử của Ngài, phải là người con của cha, mẹ. Khi xuất gia tu hành, các Phật tử vẫn không quên tình mẹ, nghĩa cha. Giữ đức hiếu với cha, mẹ cũng là vâng lời Phật dạy: “Nuôi dưỡng cha, mẹ khi cha mẹ già yếu, làm đủ bổn phận người con đối với cha mẹ, giữ gìn truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản thừa tự và làm tang lễ khi cha, mẹ qua đời”. Trong cuộc sống, người Việt thường:
Đêm đêm khấn nguyện Phật, Trời
Mong cho cha, mẹ ở đời với con
Truyện Quan Âm Thị Kính cho thấy tiểu Kính Tâm ở chùa song vẫn nhớ cha, mẹ khôn nguôi:
Bạch Vân khuất nẻo xa xa
Song thân ta đấy là nhà phải không
Tiểu Kính Tâm xuất gia tu hành thành chính quả là sự báo đáp đầy đủ công sinh thành của cha, mẹ, đồng thời cũng là sự độ giúp cha, mẹ, chồng và cả con của Thị Mỗu khỏi luân hồi, nghiệp báo.
Chuyện Diệu Thiện, Thị Kính chứa đựng nội dung đền ơn đáp nghĩa được lan truyền rộng rãi trong dân gian. Điều đó phản ánh ảnh hưởng to lớn của đạo Phật đối với quá trình hình thành, tồn tại và phát triển tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
(Tạp chí Khuông Việt số 1)