Mùa Xuân trong thơ thiền Lý – Trần
Mùa xuân là một đề tài thường trực trong thơ ca từ trước tới nay. Hầu như không có ai không viết về mùa xuân để gửi gắm tâm sự của mình. Trong thơ của họ, mùa xuân là một trong những hình ảnh tươi đẹp, sinh động và hấp dẫn nhất của thiên nhiên và cuộc sống. Người ta cũng thường mượn hình ảnh mùa xuân để nói lên khát vọng tình yêu, hạnh phúc lứa đôi, nói lên sức sống và niềm vui sống của con người, để phân biệt hay đối lập với hình ảnh của mùa thu, mùa đông vốn thường để diễn tả những nỗi buồn thương, sự héo úa, tàn tạ, sự cô đơn và giá lạnh trong cõi lòng.
Trong thơ Thiền, chúng ta cũng hay bắt gặp hình ảnh của mùa xuân. Nhưng mùa xuân trong thơ Thiền thường không phải là một sự “tả cảnh” chỉ để nói về vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, cũng không chỉ là “ngụ tình” để nói về những nỗi niềm sâu kín trong lòng người. Mùa xuân trong thơ Thiền còn là một “Thiền ngữ”, một ẩn dụ hay một ám dụ cho một bài học Thiền. Thi sĩ Thiền thường tìm thấy ở hình ảnh của mùa xuân những phẩm chất có tính tương hợp cho một phát ngôn Thiền, vì thế người đọc không chỉ thấy được cảnh sắc của thiên nhiên, thấy được ít nhiều tình cảm của con người, mà quan trọng hơn là có thể thấy được những diễn tả về một lẽ đạo huyền vi hay hồn hậu được ẩn giấu đằng sau những hình ảnh của thiên nhiên đó.

Hơn bất kỳ hình ảnh mùa xuân trong thơ ca của bất kỳ nhà thơ thế tục nào, thiên nhiên nói chung và mùa xuân nói riêng trong thơ Thiền thể hiện sự hoà quyện, sự gắn bó khăng khít giữa đạo pháp với cuộc đời, giữa tôn giáo với thế tục. Thơ Thiền không “tả thực” mà thường dùng tượng trưng, ước lệ. Nhưng Thiền rất chú trọng trực giác, nên thơ Thiền cũng là kết quả của những cảm xúc mang tính trực giác. Tượng trưng, ước lệ trong thơ Thiền dựa trên trực giác, trực cảm nên nó thường không tạo nên những công thức cứng nhắc, không lặp lại một cách đơn điệu, không quá thiên về tính “cộng đống thẩm mĩ”, mà thường bị phá vỡ một cách bất ngờ bởi những rung động và tưởng tượng có vẻ “nhất thời”, “cá biệt”, nên nó cũng thường mang tính “cá biệt thẩm mĩ”.
Tượng trưng, ước lệ trong thơ Thiền thường thiên về sự cá biệt thẩm mỹ. Xuất phát từ chỗ, thơ Thiền là sự thể hiện những triết lý, cảm xúc, tâm trạng Thiền bằng những hình ảnh hết sức sinh động và trực cảm mà nhà thơ bất ngờ nắm bắt được trong thế giới vật chất thiên hình vạn trạng, khi nhà thơ “mở con mắt tuệ”, hay là “bùng vỡ giác ngộ trong thế giới tâm linh” để chứng nhập Thiền cơ. Cho nên các hình ảnh tượng trưng, ước lệ trong thơ Thiền thường rất khác nhau ở những nhà thơ khác nhau, hay ở những bài thơ khác nhau của cùng một nhà thơ.
Mùa xuân thường được các thi sĩ Thiền sử dụng như là một tượng trưng, ước lệ, hay một ẩn dụ cho một triết lý Thiền, một bài học Thiền, một tâm trạng Thiền. Đó là những sự giải thích Thiền lý. Nhưng những giải thích này luôn biến ảo khôn lường, vì thế mà người đọc hiện đại rất khó nắm bắt được thực sự các Thiền sư – thi sĩ muốn nói gì nếu như không “nhập thân” vào bài học Thiền đó, vào cảnh huống Thiền đó, như D.T. Suzuki nói: “Những bài đó khó mà có thể phân tích được trừ phi chính người phê bình phải tự mình chứng qua cảnh đó” (Cốt tuỷ của đạo Phật).
Thiền Lão (? – ?) là một Thiền sư thời Lý, tu ở chùa Kiến Sơ núi Từ Sơn. Một lần vua Lý Thái Tông đến chùa, hỏi ông rằng ông đã tu ở chùa này bao lâu và hàng ngày làm gì, ông bèn trả lời bằng hai câu thơ:
Đãn tri kim nhật nguyệt
Thuỳ thức cựu xuân thu
(Biết thời gian của hôm nay
Xuân xưa thu cũ ai hay biết gì?)
Vua liền tỉnh ngộ. Đó là sự tỉnh ngộ về cái hiện tại, cái thường tồn, hay là sự tỉnh ngộ về tư tưởng “vô phân biệt” khi nhận ra rằng người tu đạo không còn câu chấp vào chuyện trước sau, vào chuỵện có hay không làm gì.
Trong thơ Thiền chúng ta thấy có hiện tượng, một triết lý Thiền có thể có nhiều tượng trưng, ước lệ hay ẩn dụ khác nhau. Ví dụ, để nói về “thân sắc” con người trong thế giới luân hồi của nhà Phật mang tinh thần “vô uý và phi cứu cánh”, Vạn Hạnh Thiền sư lấy hình ảnh “giọt sương đầu ngọn cỏ” (Thị đệ tử), còn Mãn Giác Thiền sư lại lấy hình ảnh “Đêm qua sân trước một cành mai” (Cáo tật thị chúng) … để làm cái tượng trưng. Bởi vậy mà tượng trưng trong thơ Thiền hết sức đa dạng, phong phú, sinh động, tinh tế và đầy bất ngờ, rất khó nắm bắt.
Nhưng ta cũng thấy một hiện tượng ngược lại, có khi nhiều triết lý Thiền lại được thể hiện ra bằng cùng một tượng trưng, ước lệ. Đó là trường hợp thơ của Thiền sư Viên Chiếu (999 – 1091). Trong Tham đồ hiển quyết, Viên Chiều thường dùng hình ảnh mùa xuân để giải thích Phật lý. Để giải thích cho đệ tử về sự phân biệt giữa “Phật, Thánh nghĩa là thế nào?”, Viên Chiếu viết:
Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh
(Trùng dương đến cúc vàng dưới giậu
Xuân ấm về oanh náu đầu cành)

Đó là tinh thần “vô phân biệt” tăng tục, phàm thánh, tinh thần “vô chấp” khi nhìn sự vật trong trạng thái tự nhiên và hồn nhiên như quy luật của trời đất, như thu sang cúc nở, xuân đến oanh ca… Nhưng khi giải thích cho đệ tử về câu hỏi “Như thế nào là không khác ngày nay?” của quá khứ, thì ông cũng lại dùng chính hình ảnh mùa xuân kể trên để trả lời:
Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh
(Trùng dương đến cúc vàng dưới giậu
Xuân ấm về oanh náu đầu cành)
Vẫn là một quan niệm “vô phân biệt” trước sau, xưa nay, quá khứ vị lai… nhưng được đặt trong một tình huống khác, mang một ý vị khác của bài học Thiền. Sự giải thích này có điểm gần gũi với cách giải thích cho câu hỏi “Như thế nào là “bản ý”? của ông:
Xuân chức hoa như cẩm
Thu lai diệp tự hoàng
(Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu
Thu sang ngàn lá tựa vàng gieo)
Bản ý là gì? Đó chính là cái gốc cùng, cái căn nguyên của đạo, là thế giới chân như trường tồn bất sinh bất diệt vượt lên trên mọi biến đổi hằng thường của vạn vật. Nó không phải chỉ là những biểu hiện của sự sống, mà còn là quy luật của sự sống, như xuân về hoa nở, thu sang lá vàng. Đây là cảm hứng thường thấy trong thơ Thiền khi các thi sĩ muốn diễn đạt sự giác ngộ về bản thể trường tồn của đạo. )Phan Trường Nguyên (1110 – 1165 cũng viết về điều này với một cảm hứng có đôi chút khác biệt:
Xuân lai oanh chuyển bách hoa thàm
Thu chí cúc khai một mộ dạng
(Xuân sang oanh hót hoa đua thắm
Thu tới đìu hiu cúc một cành)
Ta hay bắt gặp cặp đôi hình ảnh “xuân – thu” trong thơ Thiền Lý – Trần. Các nhà thơ nói về sự vận động của thế giới hữu hình bằng cặp hình ảnh “xuân – thu” là để chỉ quy luật vận hành bất tận của sự sống, của thiên nhiên và cuộc đời, sự biến đổi hằng thường của vạn vật trước cái bất biến, cái thường trụ của thế giới chân như, của đạo pháp.
Các thi sĩ Thiền không chỉ cho ta nhìn thấy cái “ngoại cảnh” mà còn muốn thể ngộ cái “tâm cảnh” giác ngộ của mình qua hình ảnh sống động của mùa xuân. Mùa xuân thường được dùng để thể hiện những gì đẹp đẽ, cao quý, tràn đầy sức sống của đời sống đạo. Mùa xuân cũng được sử dụng như những “cơ phong” nhọn sắc đâm thủng sự cố chấp và tối tăm của tâm trí con người, để đập vỡ thái độ cố chấp của con người. Viên Chiếu chỉ cho học trò về việc muốn “Thấy được bản tính thì thành Phật” thì phải biết vượt lên trên thói thường, phải thấy được cái hằng thường vĩnh cửu của đạo đằng sau những biểu hiện nhất thời của sự vật:
Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát
Phong xuy thiên lý phức thần hương
(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân
Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)
Nếu không thì người học đạo dù khổ công đến đâu cũng chỉ mơ hồ như như bướm vờn hoa, mà tâm trí vẫn chẳng thể giác ngộ:
Xuân hoa dữ hồ điệp
Cơ luyến cơ tương vi
(Hãy xem bướm giỡn hoa xuân
Mấy phần quyến luyến, mấy phần lìa xa)
Người tu hành phải biết mở con mắt vô phân biệt thì mới chứng đắc chân lý, để thấy được bản tính thì mới thành Phật. Còn câu chấp, còn phân biệt thì không thể giác ngộ.
Thiền sư Chân Không (1046 – 1100) trong Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn, khi trả lời câu hỏi “Khi sắc thân đã bại hoại rồi thì ra sao?”, đã dùng hình ảnh mùa xuân bất tử để tượng trưng cho cái bản thể trường tồn của đạo vượt qua mọi sự tàn huỷ của thể xác con người:
Xuân lai, xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc, hoa khai chỉ thị xuân
(Xuân qua lại ngỡ xuân tàn
Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân)
Một trong những bài thơ hay nhất về hình ảnh mùa xuân, hình ảnh hoa xuân thấm đẫm Thiền ý là bài Cáo tật thị chúng của Thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096). Bài thơ thể hiện sự ngộ giải chân lý Phật giáo của nhà sư. Mọi sự vật, hiện tượng luôn biến đổi theo vòng luân hồi của thịnh suy, khai lạc, sinh tử. Nhà thơ mượn hình ảnh cành hoa mai trong buổi xuân tàn để tượng trưng cho sức mạnh của bản thể trường tồn, của vạn pháp đang hằng thường khắp nơi, trong vạn vật, trong con người:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai)
Thời Lý, thơ Thiền thiên về việc diễn tả những triết lý vi diệu của đạo. Nó kỳ bí mà thanh thoát, cao siêu mà sống động… Hình ảnh mùa xuân phục vụ cho việc diễn tả Thiền ý mang phong vị vừa thâm trầm, vừa sâu sắc và tao nhã…

Đến thời Trần, Phật giáo chuyển mạnh sang hướng “tuỳ tục”. Hình ảnh mùa xuân trong thơ Thiền cũng có những biến đổi theo, mang ý vị mới mẻ: mạnh mẽ, dữ dội, sôi nổi, khoẻ khoắn hơn. Nó cũng hiện thực và đời thường hơn. Tinh thần “tuỳ tục”, tư tưởng “hoà quang đồng trần” thấm đẫm cả sắc xuân trong thơ Thiền thời này. Ta hãy xem Trần Thái Tông (1218 – 1277) viết về hình ảnh mùa xuân như thế nào. Ông cho ta nghe thấy một tiếng “sấm xuân” trong tiếng quát của Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền, khi ông viết về tích “Lâm Tế đánh, quát để dạy học trò”:
Nhập môn tiện át dục hà thành
Dẫn đắc nhi tôn tuy lý tinh
Bất thị xuân lôi thanh nhất chấn
Tranh giao hàm giáp tận khai manh
(Đến nhà là quát cớ sao đây
Vì muốn cháu con tỉnh lại ngay
Có phải sấm xuân rền một tiếng
Thì muôn hạt giống nảy mầm cây)
Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230 – 12910) lại cho ta thấy một “ánh xuân” rực sáng trong tâm người ngộ đạo:
Học giả phân phân bất nại hà
Đồ tương linh đích khổ tương ma
Báo quân hữu ỷ tha môn hộ
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa
(Học đạo mênh mang ai có hay
Gạch đem mài gạch nhọc nhằn thay
Cửa người anh hãy thôi nương tựa
Một ánh xuân về hoa đó đây)

Còn Phật hoàng Trần Nhân Tông ( 1258 – 1308) lại diễn tả một “mùa xuân không cùng” của những người ngộ đạo khi quản được “cung ma”, khi dập tắt được mọi vọng động của tâm hồn để chứng nhập Thiền cơ:
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thăng xuân
(Cung ma nếu quản chặt
Cõi Phật xuân không cùng)
Đặc biệt trong bài Xuân vãn, ông ví cảnh giới giác ngộ như mùa xuân đầy màu sắc và âm thanh đến mê hoặc lòng người:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng
(Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không
Xuân sang hoa nở rộn tơ lòng
Chúa xuân nay đã thành quen mặt
Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng)
Mùa xuân là một hình tượng nghệ thuật quan trọng trong thơ Thiền thời Lý – Trần. Mùa xuân là một tượng trưng của Thiền lý, của tư tưởng Phật giáo, thể hiện cái đẹp đẽ, cái hằng thường bất diệt của đạo. Mùa xuân cũng là tâm hồn, là tình cảm và tinh thần của con người thời đại này. Đó là tâm hồn, là tình cảm và tinh thần của những con người có ý chí và nghị lực trên con đường tu hành, những con người yêu đời và tràn trề sức sống. Hơn nữa, mùa xuân còn thể hiện những thay đổi nghệ thuật quan trọng của thơ Thiền từ thời Lý sang thời Trần, trong quá trình các Thiền sư – thi sĩ đưa những triết lý huyền vi của đời sống đạo trở về ngày một gần gũi hơn với đời sống hiện thực của con người.
PGS.TS. Nguyễn Phạm Hùng / Trích đăng từ Tạp chí Khuông Việt số 5