Khái quát về Luật học Phật giáo (p2)

TT. THÍCH TIẾN ĐẠT

Phần 1: bấm link 

III. Luật học với Kinh học, Luận hoc

Trong bài tựa của kinh Trường A-hàm ngài Đạo An có viết: “Như Lai xuất thế, đại giáo có ba: Theo thân khẩu thì phòng ngừa bằng luật cấm; làm sáng tỏ vấn đề thiện ác thì chỉ dẫn bằng khế kinh; diễn đạt sự sâu kín vi diệu thì chỉ dẫn bằng pháp tướng”. Như vậy, Tam Tạng có sự sai biệt giữa Kinh, Luật, Luận. Vậy chúng ta thử khảo sát xem quan điểm của các nhà Phật học về vị trí của Luật học, Kinh học và Luận học tạng Tam Tạng như thế nào?

Có quan điểm cho rằng giữa Kinh, Luật, Luận không có sự sai biệt. Vì sao? Vì tất cả lời dạy của đức Phật đều phát sinh từ một trí tuệ rộng lớn, được xuất sinh từ sự giác ngộ thâm sâu, được nhiếp thụ bằng các bực, vô uý, đồng sinh khởi bằng tâm đại từ bi của đức Phật.

Lại có quan điểm cho rằng có sự sai biệt. Hơn nữa, ngay tên gọi cũng đã có sự sai khác: Đây là Tu-đa-la, đây là Tỳ-nại-da, đây là A-tỳ-đàm…

Trên phương diện vô sai biệt là nói về bản thể, đã đồng lưu xuất từ trong biển trí tuệ của đức Phật (Như Lai Tạng), tự không có đường chia nhiều ngả khác nhau nên gọi chung sự tập thành giáo điển của Phật giáo là Đại tạng kinh. Nhưng quan sát ở phương diện sai biệt thì mỗi phần có tông chỉ, có giáo nghĩa giới hạn rõ ràng, không thể hợp làm một được. Cho nên có hai tạng, ba tạng, bốn tạng, năm tạng các loại không đổng. Nay không gọi là tạng mà gọi là học bởi nghĩa tạng và học thông nhau nên ba phần kinh, luật, luật đều gọi là học.

Nay trên phương diện sai biệt, thuyết minh điểm bất đồng giữa luật học với kinh học, luận học.

Luật học chú trọng ở sự, còn kinh học, luận học thiên trọng ở lý. Sự chỉ cho việc tự thân trải nghiệm, tu tập; là cái học thuộc đạo đức hành vi. Lý có thể nghiên cứu tinh tường, suy nghĩ sâu sắc, thuộc cái học tri thức, ngộ chứng. Luật học và kinh luận vốn có sự sai khác như vậy. Lại có người cho rằng: “Kinh thì chỉ chung cho người khác nói, còn luật chỉ từ đích thân kim khẩu của Phật nói ra” nên đến các bậc thánh cũng không dám thay đổi một câu, một chữ. Mặt khác, đức Phật nói mỗi bộ kinh đều có thời gian nhất định, có hạn lượng, còn đối với luật thì thông suốt từ đầu đến cuối không có hạn lượng. Luật sư Linh Chi đối với Tam Tạng có sự đánh giá như sau: “Nếu giải thích rõ lý để phát huy trí tuệ, phá vùng hiển chân thì kinh luận là hơn. Nếu theo phép tắc chọn lấy việc tu hành diệt ác sinh thiện thì Tỳ-ni đức tôn. Nên biết Tam Tạng mỗi phần đều có những ưu điểm riêng” (Tư trì ký – q1).

Sự đánh giá trên quả là không nghiêng lệch, hết sức thoả đáng. Chỉ vì từ trước đến nay, những người học Phật theo quan điểm của mình quan tâm đến sự trước sau của Tam Tạng mà tranh luận hơn thua nên không khỏi có các kiến chấp thiên lệch quanh co nhưng nhờ vào đó, chúng ta có thể biết thái độ nghiên cứu, học Phật của người xưa. Quan điểm sai khác có nhiều nhưng tựu trung có ba xu hướng là:

 1. Nghiêng nặng về kinh học

Phân biệt theo con đường thông luận chung thì cho rằng trước Kinh, kế tiếp là Luật, sau cùng là Luận. Cho đến chủ trương nghiêm khắc thì chỉ đặc biệt coi trọng Kinh.

Tạng “Tam luận huyền nghĩa” có ghi: “Đệ tử của Thượng toạ bộ chỉ hoằng truyền kinh, lấy kinh làm chính. Luật thì khai gia bất định. Tỳ-đàm chỉ giải thích kinh hoặc quá kinh bản, hoặc giảm kinh bản nên không hoằng truyền, cũng không bỏ hai tạng ấy”.

Sách “Dị tông luận” có nói: “Kinh Lượng bộ tự xưng ta lấy A-nan làm thầy vì là người kết tập kinh tạng lần thứ nhất nên chủ trương của Kinh đường bộ chỉ dựa vào kinh làm chính lượng, không dựa vào luật và Đối pháp. Phàm những chỗ y cứ dẫn giải đều lấy kinh làm chính”.

Đến ngay pháp sư Đạo An ở Trung Quốc cũng có cùng quan điểm: “Ngài A-nan tụng ra 12 bộ kinh, sau đó chia ra các con đường, đến pháp Tiểu thừa là bốn bộ A-hàm… Ngài Ca Chiên Diên Tử tóm lấy phần thực hành chính yếu, dẫn lời giải thích huấn dụ của kinh là A-tỳ-đàm. Ngài Ưu-ba-la phân biệt nguyên nhân mà thành lập Tỳ-ni cùng với A-tỳ-đàm và bốn bộ A-hàm mà tạo nên Tam Tạng”. (Tỳ-bà-sa luận – q14).

Hiểu rõ hơn về Chánh tín và Mê tín trong Phật giáo

Luật sư Hoài Tố có đưa ra quan điểm giải thích: Trước kinh sau luật, luận là do các nghĩa sau:

a. Dựa vào thứ tự thuyết giáo: Sau khi thành đạt, đức Phật liền chuyển bánh xe pháp, đầu tiên nói pháp Tứ đế Vườn Nai, đó là kinh tạng. Đã nghe pháp rồi xuất gia thụ giới, thực hành trong việc tu thân xử sự, đó là luật tạng. Đã khởi hành rồi lại phân biệt uẩn, vô ngã. .. đó là luận tạng.

b.Theo căn cơ: “Người chưa trồng căn lành khiến trồng căn lành nên nói Tu-đa-la. Người đã trồng làm cho thành tựu tương tục nên nói Tỳ-nại-da. Người đã thành thục tương tục khiến cho giải thoát nên nói A-tỳ-đàm” (luận Đại Tỳ-bà-sa-q1)

c. Căn cứ theo sự kết tập: Trong kinh Xuất Diệu và Luận Đại Trí Độ đều nói:

d. Theo căn bản: Khế kinh là gốc nên phải thuyết minh trước; giới từ đó sinh ra, tuệ mới sinh khởi được” (Tứ phận luật khai tông ký-q1).

Luật sư Hoài Tố nêu ra 4 lý do như trên hết sức rõ ràng nên những người coi trọng kinh học hết sức tán đồng.

2. Nghiêng về Luận học

Sau khi đức Phật nhập diệt không lâu, các đệ tử còn thiên trọng về kinh luật, vể sau, do kiến giải bất nhất vể các vấn đề giáo nghĩa nên phát sinh tranh luận mà tạo thành phong trào luận học phát triển rực rỡ, từ đó sản sinh ra các bậc đại luận sư như Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân,…

Trong “Tam luận huyền nghĩa” có nói về sự phân chia của Thượng toạ bộ và Tát-bà-đa như sau: “Bộ Tát-bà-đa bản Tỳ-đàm là tối thắng nên hoằng dương nghiêng về nó. Từ ngài Ca-diếp đến ngài Quật-đa hoằng dương kinh là chính; từ ngài Phú-lâu-na dần dần bỏ gốc hoằng dương ngọn nên hằng truyền Tỳ- đàm là chính. Đến thời ngài Ca-Chiên-Diên- Ny-Tử thì Tỳ-đàm rất hưng khởi”.

Trong “Dị Tông Tông luận” nói về Kê dận bộ như sau: “Bộ này chỉ hoằng dương Đối pháp, không hoằng dương kinh luật”.

Phật giáo Ấn Độ, sau khi đức Thế Tôn diệt độ đã phát triển rực rỡ muôn màu, thực sự nhờ kết quả của các đại sư đã nỗ lực nghiên cứu luận học. Còn ở Trung Quốc, như các ngài Từ Ân, Gia Tường và các tông Câu-xá, Thành Thực… cũng đều nghiêng về luận học. Luật sư Hoài Tố đã có phát biểu mang tính hài hoà rằng: “Nếu theo sự hơn kém để nói rõ về thứ tự thì luận đứng trước, kế đến kinh, sau đến luật. Bởi vì Đối pháp giải thích rõ về Tuệ – gốc của chủng trí; Định chứng được ở tâm, nhân tuệ mà khởi; Giới điều phục thân và lời nói, do định mà phòng ngừa được” (Tứ phận luật khai tông ký – q1).

3. Nghiêng nặng về Luật học

Khi Đức Phật còn tại thế khen ngợi ngài Ca-diếp tu pháp đầu đà khổ hạnh, chia nửa toà cho ngồi, lại tán thán tôn giả Ưu-ba-ly trì luật đệ nhất nên sự ham chuông đạm bạc giữ giới thời bấy giờ trở thành đặc sắc của Phật giáo. Đến khi sắp nhập Niết-bàn, Phật còn nhắc đi nhắc lại rằng: “Tỷ khiêu các ông, sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng trân kính Ba-la- đề-mộc-xoa như mù tố mà được mắt sáng, như người nghèo được của báu. Phải biết giới là đức thầy cao cả của các ông, cũng như ta ở đời không khác” (Kinh Phật Di Giáo). Cho nên luật học ở Ấn-Độ phát đạt, thứ nhất là do có sự khuyến khích của đức Phật lúc còn tại thế; hai là lời di chúc thiêng liêng mà Ngài căn dặn. Trong luật Thiện Kiến có ghi: “Đại đức Ca-diếp nói với đại chúng rằng: Chúng ta nên kết tập gì trước? Có phải Tỳ-ni không? Các vị Tỷ khiêu đáp: Thưa đại đức Tỳ-ni tạng là thọ mệnh của Phật pháp, Tỳ-ni tạng trụ, Phật pháp cửu trụ. Cho nên chúng ta trước kết tập tạng Tỳ-ni”. Trong bài tụng của luật Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da có câu:

Phật nói ba tạng giáo

Tỳ-nại-da là đầu

Phật dạo khắp thế gian

Tuỳ nơi nói kinh pháp.

Luật giáo không như thế

Nên hiểu khó được gặp”.

Sau khi Phật diệt độ khoảng 300 năm, các vị đệ tử tôn kính luật học không kém gì lúc Phật tại thế. Đến sau khi có sự phân chia, như một cây gậy vàng bẻ ra từng đoạn nhưng bản thể của vàng chưa từng khác trước nên luật bộ từ khi phân ra 2 bộ, 5 bộ,  8 bộ… song điều chính yếu là đối với luật học căn bản không dám có ý tưởng khinh thị phóng túng. Đối với Phật giáo Nam truyền, luật được đặt trước kinh luận. Phật giáo Bắc truyền đối với luật học cũng theo xu hướng ấy. Luật Tứ phận, Ngũ phận, Thiện kiến càng cho rằng trước luật, kế đến kinh, sau cùng là luận. Luật sư Hoài Tố nêu 4 lý do để chứng minh điều đó:

a. Theo pháp trụ: Tỳ-ni trụ, Phật pháp cửu trụ nên trước kết tập Tỳ-nại-da nên luật Thiện kiến nói: “Tỳ-ni tạng là thọ mệnh của Phật pháp, Tỳ-ni tạng trụ, Phật pháp cửu trụ”.

b.   Dựa vào việc khởi hành: Phán xét đến việc tu hành thì giới hạnh ở trước nên luật học đứng đầu. Như nói: “Nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ”.

c.   Căn cứ vào việc chế lập khác biệt: Gọi Tỳ-nại-da là hơn cả vì có tính bí mật, tạo ra riêng nên hơn hẳn hai tạng kia, do vậy thuyết minh trước. Trong luật có chế: Chê bai tạng luật phạm tội Ba-dật-đề; nói xấu hai tạng kia chỉ phạm Đột-cát-la.

d.   Theo căn cơ: Nói tạng luật che chở cho Tăng chúng cho nên thuyết minh trước Hai tạng kia không như thế nên ở sau (Tứ phận luật khai tổng ký).

“Luật học trọng ở việc hành trì; kinh luận nghiêng về lý thuyết. Nhưng nếu chỉ, lý thuyết suông mà không thực hành thì không khác nào miệng nói đến các món trân bảo mà không hề được nếm qua. Cho nên các bậc tiền thánh quả tròn, các vị hậu hiền nhân mãn. Không ai không xuất phát ở luật học mà ra” (Hành sự sao tư trì ký – q3).

Cho nên, tâm của Tỷ khiêu có thấy pháp hay không, người thường không biết nhưng thân miệng của Tỷ khiêu có như luật không, người thường đều biết. Làm được như luật thì Phật pháp được người đời tôn trọng; làm không đúng luật thì bị người đời chỉ trích. Người tại gia đối với Tam bảo tin tưởng hay chê bai tỷ lệ thuận với việc người xuất gia giữ gìn giới luật hay huỷ hoại nó. Sự nhiễm tịnh, tà chính trên hành vi dùng giới luật xét nghiệm thì sẽ biết. Cho nên muốn phân biệt phải trái về sự nhiễm tịnh thì cần phải học luật, trì luật. Người xuất gia ngày nay chỉ muốn siêng năng dũng mãnh học tập kinh luận, song hiện đời không thấy pháp không quan trọng nhưng nếu không học luật, trì luật thì hiện đời này sẽ tuỳ lúc tuỳ nơi chiêu cảm rất nhiều phiền não, chê trách… Bản thân họ và tăng đoàn đều sẽ bị tổn thất. Nhìn trên mặt tác dụng thế tục, tính trọng yếu của luật vượt lên trên kinh luận.

Tác dụng đặc thù của luật là kiềm chế bản ngã và buông bỏ riêng tư. Phàm làm việc gì cũng cần phải thông qua sự bàn bạc chung, quyết định chung, lo liệu chung của đại chúng. Ý kiến và quyền uy riêng của cá nhân tuyệt đối không cho tự do phát triển, đây chính là chế ngự bản ngã. Phát tâm phục vụ đại chúng hết sức hạn chế sự bành trướng về địa vị và lợi dưỡng của cá nhân, không được tự ý nhận lấy và tiêu dùng mặt cách phung phí. Đây gọi là buông bỏ riêng tư. Phật giáo nói ngã, cần phải trước hết bắt đầu từ buông bỏ riêng tư (cá nhân). Nếu bỏ qua luật chế thì thông thưởng một Tỷ khiêu chê’ ngự bản ngã và buông bỏ riêng tư còn không làm được mà vội bàn đến giáo nghĩa phá ngã và dứt trừ riêng tư sao được? Nhìn từ phương diện tu hành, giới luật trở thành khuôn mẫu thực tế nhất của người xuất gia.

Nhất cử nhất động đều không thể tách rời điểu này. Cho nên giữa và cuối đời đức Thế Tôn đặc biệt coi trọng giới luật.

(Còn nữa)

Phần 3: bấm link

Bình luận
Tin cùng chuyên mục