Khái quát về Luật học Phật giáo (p1)
TT. THÍCH TIẾN ĐẠT
I. Khái niệm Luật học
Luật học hay Giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứu và thực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử, nhằm thực hiện mục đích lý tưởng giải thoát giác ngộ, xây dựng, củng cố và phát triển Tăng đoàn hoà hợp, thanh tịnh làm cho chính pháp được truyền bá rộng rãi và trường tồn mãi mãi.
Luật là một từ dịch nghĩa của Trung Quốc. Về Phạn ngữ vốn có 3 tên gọi khác nhau:
1. Tỳ-ni hay Tỳ-nại-da (Vinaya)
Trung Quốc dịch là Luật, Diệt, Điều phục, Thiện trị (chính dịch là Luật). Luật là pháp cấm chế, lấy đó làm chuẩn mực thì “Diệt” trừ được các điều ác, “điều phục” phiền não, “thiện trị” thân tâm mà được thanh tịnh. Sách “Tứ Phận giới sớ” nói: “Luật là pháp, từ giáo mà thành tên; quyết đoán khinh trọng khai gia trì phạm, không pháp nào không xác định nên thuộc chính dịch”.
Tiếng Phạn là Ưu-bà-la-xoa (Uparaksa) mới chính dịch là Luật. Sách “Đại thừa nghĩa chương” giải thích như sau: “Luật, nước ngoài gọi là Ưu-bà-la-xoa, Trung Quốc dịch là Luật, có hai nghĩa: Một là luận theo giáo; hai là biện minh theo sự tu hành. Nếu theo giáo giải thích, cân nhắc thì gọi là Luật. Nếu theo sự tu hành thì điều phục gọi là luật. Giáo pháp của Tỳ-ni giải thích rõ sự tu hành của luật này nên gọi là Luật, đại sinh ra sự tu hành theo luật nên gợi là Luật”.
Luật là pháp cấm chế của Phật, dựa vào pháp luật mà giải thích cân nhắc khinh trọng, phân biệt phạm, không phạm cho nên ưu-bà- la-xoa theo giáo nghĩa mà dịch là Luật. Nếu nhờ vào luật là điều phục phiền não, diệt trừ điều tội lỗi sai trái xấu ác thì Tỳ-nại-da theo sự tu hành mà dịch là luật. Trong thực tế các kinh luận phần lớn dùng Tỳ-nại-da (Tỳ-ni) để gọi luật nên luật tạng được gọi là Tỳ-nại-da tạng hay Tỳ-ni tạng mà không gọi là ưu-bà- la-xoa. Lấy luật làm giáo pháp do ở công năng phòng ngừa (phòng phi chỉ ác) và chữa trị (thiện trị thân tâm), dựa vào công năng thiện thắng làm tên nên phần lớn gọi Tỳ-ni là Luật.

2. Ba-la-đề- mộc-xoa (Pratinloksa)
Trung Quốc dịch là Biệt giải thoát, từ nơi nhân mà có tên này. Giới của bảy chúng đệ tử Phật, thông thường được gọi là Giới biệt giải thoát vì có năng lực phòng ngừa, đình chỉ từng điều sai trái nên gọi là Biệt. Mặt khác do trì giới mà tránh được tội lỗi, sai trái và giải thoát các điều ác. Lại do trì giới mà được hai quả giải thoát hữu vi và vô vi nên gọi là Giải thoát.
Biệt giải thoát chính là sự giải thoát tuỳ thuộc vào số giới điều được tuân giữ. Nghĩa là giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều; giữ ít thì giải thoát ít; giữ giới trọn vẹn thì giải thoát trọn vẹn. Bởi vì mỗi một điều giới mà đức Phật chế định có khả năng ngăn chặn, loại bỏ một loại hành vi bất thiện (phiền não) nào đó, không cho nó len lỏi hoặc xâm nhập vào nội tâm của hành giả.
Ba-la-đề-mộc-xoa còn dịch là Xứ xứ giải thoát hoặc Tuỳ thuận giải thoát. Bởi giới là nguồn gốc (nơi chốn) phát sinh ra các thiện pháp công đức, nó là chỗ an ổn nhất của mọi chúng sinh để đi đến mục đích giải thoát. Còn tuỳ thuận giải thoát tức là sự giải thoát tuỳ thuận vào tâm của hành giả hướng đến quả hữu vi hay vô vi, quả thế gian hay xuất thế gian.
Kinh “Xá-lợi-phất vấn” giải thích: “Ba-la- đề-mộc-xoa nghĩa là tối thắng. Gốc của các điều hành lấy giới làm căn bản, nhiều công đức thiện pháp được sinh ra nên gọi là thắng nghĩa. Lại nữa, giới có hai loại: Một là dựa vào thân khẩu, hai là dựa vào tâm”. Luật nghi của 7 chúng đều phòng ngừa, đình chỉ điều quấy ác của 7 chi tội ở thân và miệng. Điều này tuy thô thiển nhưng lại là căn bản, vì nếu không đủ giới biệt giải thoát này thì chính định, thánh đạo không do đâu mà phát sinh nên lấy nghĩa tối thắng để giải thích tên Ba-la-đề- mộc-xoa. Như vậy càng thấy sự trọng yếu của biệt giải thoát.

3. Thi la
Chính dịch là Giới, cũng dịch là Thanh lương. Giới được hiểu là phương tiện để ngăn ngừa các hành động sai lầm, chấm dứt mọi điều ác (trừng phi chỉ ác viết giới) hay ngừng làm các điều ác mà làm các điều thiện (chỉ ác tác thiện). Sách “Đại thừa nghĩa chương” giải thích: “Điều sai trái của ba nghiệp thiêu đốt hành giả, những việc ấy như lửa nóng. Giới có khả năng phòng ngừa, đình chỉ điều đó, làm cho thân tâm được mát mẻ nên gợi là thanh lương”. “Đại Trí Độ Luận” nói: “Thi-la dịch là Tính thiện: hạnh tốt đại lành, không tự phóng dật, đó là Thi-la”.
Tóm lại: Luật thì căn cứ vào phương diện giải thích rõ giáo nghĩa; Giới thì căn cứ vào phương diện hành tướng; Giải thoát thì căn cứ vào phương diện mục đích, có bắt đầu thì phải có kết thúc, tức dựa vào giáo khởi hành, nhân hành mà chứng quả vậy. Nhưng hiện tại chỉ lấy luật đặt tên bởi luật bao hàm nghĩa hết sức rộng, như “Hành sự sao tư trì ký” giải thích ý nghĩa của Luật như sau: “Nay theo chú thích về giới thắng suốt bao gồm các văn, không ra ngoài 3 nghĩa:
Thứ nhất nói luật là pháp: Từ giáo nghĩa mà đặt tên, quyết đoán sự khinh trọng, khai gia trì phạm không pháp nào không được xác định… nên gọi là pháp.
- Thứ hai gọi luật là phân chia: Là phải xem xét liệu lượng, căn cứ vào lượng hiện có mà phân định, phán đoán, quyết định. Lại nói, giáo tướng giải thích rõ 4 việc tất cả ở đây, đó gọi là phạm, không phạm, khinh, trọng. Bốn hiện tượng này không có luật thì không thể phân tích, xác định, do vậy trì phạm không quá lạm.
- – Thứ ba nói luật là biên chép: Phải hiểu rõ giáo nghĩa và xét nghiệm tình hình thực tế mới quyết định bằng việc ghi chép (án tại hồ sơ) xử lý nghiêm ngặt, quyết định chính xác. Nếu không có sự biên chép thì không sao minh định được”.
Giới và luật về mặt ý nghĩa có những điểm giống nhau, cũng có điểm khác nhau, tên tuy có khác nhưng vẫn cùng một thể, vì thế thường gọi tên ghép là giới luật. Do vậy luật học chính là toàn bộ học thuật thuộc luật tạng trong Tam Tạng. Cũng như pháp luật hiện hành của xã hội con người, luật là chỉ những bộ sách ghi chép chi tiết những quy tắc quy định về thể chế, tổ chức của Tăng-già cùng những nguyên tắc quy định cách giải quyết những bất đẳng trong tổ chức Tăng-già và biện pháp xử trị đối với những thành viên vi phạm những điều giới luật Phật chế. Để phân biệt, người ta thường dùng danh từ “giới” khi đề cập đến hành động của cá nhân và “luật” nhằm chỉ cho những hoạt động của Tăng đoàn.
4. Luật và nghi
Phép tắc bao hàm thân, lời, tâm ý gọi là luật. Tuân theo phép tắc đó có tiết độ thì gọi là Nghi. Vì uy nghi phải từ giới luật mà sáng tỏ và giới luật phải từ uy nghi mà hiển bày. Người giữ gìn giới luật chắc chắn đầy đủ uy nghi, uy nghi không thiếu khuyết thì giới đức đầy đủ, giới đức đầy đủ mới hoàn thành được mục đích tu đạo và khí tiết cao thượng.
Hai nghiệp thân miệng đều có biểu hiện ở động tác và âm thanh. Động tác và âm thanh biểu hiện ra nếu đều đầy đủ tiết độ thích đáng thì đây chính là uy nghi. Nhưng động tác của thân hình, việc dùng từ ngữ, lời nói, sắc thái của âm thanh hiện ra nghi có đầy đủ uy nghi phải do giới đức hàm dưỡng bên trong. Cho nên cần phải ba nghiệp thân miệng ý thanh tịnh, đều hợp phép tắc; theo đó cử chỉ hành động, lời nói, nét mặt có tiết độ, đức tốt hiển lộ ra ngoài đủ hàm khuôn phép cho người khác khiến họ sinh khởi tâm cung kính. Đây chính là uy nghi.
Toàn bộ giáo nghĩa Phật giáo, thực sự là môn tâm lý hợp hết sức tinh vi, rộng lớn và thiết thực: Có kinh luận để minh tâm kiến tính, có luật nghi để nhiếp tâm, chế ngự hành vi, sửa trị cả trong ngoài, tạo nên hình tướng uy nghi tuyệt đối trang nghiêm. Cho nên cẩn thận giữ gìn đầy đủ uy nghi thì làm cho tốt, cả hành vi của mình đều phù hợp với tiết độ hiện hành. Như thế thì thân miệng không nói và làm bừa bãi, tâm ý cũng sẽ không tán loạn, dần dần sẽ tương ứng với thiền định và trí tuệ
Cho nên Luật tức và Nghi; Nghi cũng tức và Luật, hai phần ắt phải đồng thể mà làm lực dụng cho nhau. Luật nghi đầy đủ thì có thể điều chuyển ba nghiệp làm sinh khởi việc thiện, sửa trị việc ác, tự lợi lợi tha đầy đủ. Đây chính là bản ý chế định luật nghi của đức Thế Tôn vậy.
II. Tư liệu của Luật Tạng
Tư liệu nghiên cứu luật tạng khá nhiều, có thể chia ra hàm nhiều loại: Hệ Pa-li (Phật giáo Nam truyền); hệ Hán dịch (Phật giáo Bắc truyền); hệ Phạn văn; hệ Tây tạng ngữ; hệ Tây vực ngữ; hệ Anh ngữ v.v… Trong đó, hệ có ý nghĩa giá trị phong phú nhất, mà hoàn bị nhất phải kể đến và văn hệ Pa-li và hệ Hán dịch. Nay xin giới thiệu sơ lược như sau;
1. Tư liệu của hệ Pa-li (Phật giáo Nam truyền)
Trong tam tạng Phật giáo Nam truyền thuộc văn hệ Pa-li thì luật tạng được xếp vị trí thứ nhất gồm 5 tập đầu, bao gồm 3 bộ phận:
1.1. Kinh “Đại phân biệt” (Sutta Vibhanga): Phần này được chia hàm 2 phần.
– Đại phân biệt (Maha Vibhanga); Tức giới bản của Tỷ khiêu, giải thích 227 giới điều của Tỷ khiêu gồm 8 nhóm.
– Tiểu phân biệt hay Tỷ khiêu ni phân biệt (Bhikkhuni Vibhanga); Chú thích giới bản của Tỷ khiêu ni gồm 3 1 1 giới, chia làm 7 nhóm.
1.2. Kiền độ (Khandha): Đây là các nhóm công việc Tăng sự được chia 2 phần:
– Đại phẩm (Maha Vagga); Gồm 10 kiền độ, trình bày về những chế độ, quy tắc, nghi thức và nguyên nhân thành lập giới luật như: Đại kiền độ, Bố tát, Nhập vũ an cư, Tự tứ, Bì cách, Dược, Ca-thi-na y, Chiêm-ba, Câu- diệm-di kiền độ…
– Tiểu phẩm (Cullavagga); Gồm 12 kiền độ như Yết-ma kiền độ, Biệt trú kiền độ, Tập kiền độ, Diệt tránh kiền độ, Tiểu sự kiền độ, Già thuyết giới kiền độ, Tỷ khiêu ny kiền độ, Ngũ bách kiền độ, Thất bách kiền độ.
1.3. Phụ tuỳ (Parívàra): Phần này thuộc về phụ lục gồm 19 chương, dùng để toát yếu những điểm chính của 2 phần trên.
Ngoài 3 bộ phận nêu trên, trong luật Pa-li còn có bộ sớ giải của ngài Phật Âm là Samantapasadika (Nhất thiết thiện kiến, Nhất thiết hoan hỷ mãn túc) gồm 7 quyển, tương đương với Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa bản dịch Hán ngữ… cùng một số sách khác Patimokha (giới kinh)…
Toàn bộ luật tạng Pa-li được dịch sang tiếng Anh, nằm trong bộ Thánh Điển Phương Đông (3 quyển: 13, 17 và 20)
2. Tư liệu Hán dịch
Tư liệu luật tạng Hán dịch xưa nay thường gọi là “bốn luật, năm luận”. Thực ra toàn bộ quảng luật gồm 5 bộ và hơn nữa, hệ thống cũng rất rõ ràng. Ngoài ra còn có những bản dịch quảng luật không đầy đủ hoàn toàn và nhiều bản giới kinh của các bộ phái.
- Luật Thập Tụng (Tát-bà-đa bộ): 61 quyển – Phất-nhã-đa-la và La-thập dịch.
- Luật Tứ phận (Đàm-vô-đức bộ): 60 quyển – Phật-đà-da-xá và Trúc-phật-niệm dịch.
- Ma ha tăng kỳ luật: (Đại chúng bộ): 40 quyển – Phật-đà-bạt-đà-la và Pháp Hiện dịch.
- Luật Ngũ phận (Di-sa-tắc bộ): 30 quyển – Phật-đà-thập và Trúc Đạo Sinh dịch.
- Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (Hữu bộ – Tát-bà-đa): 189 quyển do Tam Tạng Nghĩa Tịnh dịch.
- Tỳ-nại-da (Giới nhân duyên kinh): 10 quyển, là quảng luật của ẩm Quang bộ do Trúc-phật-niệm dịch.
Cùng 5 bộ luận giải thích luật tạng của các bộ phái như.
- Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa (luật của Thượng toạ bộ Tích Lan): 10 quyển, do Tăng- già-bạt-đà-la dịch. Đây là tác phẩm của ngài Phật Âm.
- Tát-bà-đa Tỳ-ni Tỳ-bà-sa (Hữu bộ): 9 quyển, mất tên người dịch.
- Tỳ-ni mẫu kinh (luận) (Pháp tạng bộ): 5 quyển, mất tên người dịch.
- Nhị thập nhị minh liễu luận (Chính cương bộ): 1 quyển – Tam Tạng Chân Đế dịch.
- Tát-bà-đa Tỳ-ni Ma-đắc-lặc-già (Hữu bộ): 10 quyển, do Tăng-già-bạt-ma dịch.
Giới bản của các bộ phái:
- Giải thoát giới kinh.
- Thập tụng Tỷ khiêu Ba-1a-đề-mộc-xoa giới bản.
- Thập tụng Tỷ khiêu ny Ba-la-đề-mộc-xoa giới bản.
- Tứ phận luật Tỷ khiêu giới bản.
- Tứ phận luật Tỷ khiêu ny giới bản.
- Ma ha Tăng kỳ luật đại Tỷ khiêu giới bản.
- Ma ha Tăng kỳ luật Tỷ khiêu ny giới bản.
- Di-sa-tắc ngũ phận luật Tỷ khiêu giới bản.
- Ngũ phận luật Tỷ khiêu ny giới bản.
- Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ giới kinh.
- Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Bật-sô ny giới kinh.
(Căn cứ vào Đại tạng kinh Hán dịch thì còn các tác phẩm biên soạn, chú sớ giải thích luật tạng của các nhà luật học Trung Quốc sẽ giới thiệu trong chương III)
(còn tiếp)
Phần 2: https://khuongviet.com.vn/nghien-cuu/khai-quat-ve-luat-hoc-phat-giao-p2-7545/00/