Những tố chất cơ bản của người hành đạo
Phục vụ chúng sinh là thiết thực cúng dàng chư Phật. Tinh thần cốt lõi của Phật giáo là phá mê, khai ngộ, giúp chúng sinh thoát khổ sinh tử luân hồi, đạt Niết Bàn an vui. Đây chính là tinh thần nhập thế của Phật giáo. Nói đến tính nhập thế của Phật giáo là nói đến vai trò của Phật giáo trong việc tham gia cải tạo xã hội, phát triển quốc gia, dân tộc. Tất cả những giá trị căn bản của Phật giáo như tinh thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha, thuyết nhân quả, nghiệp báo v.v. đều có giá trị thực tiễn thiết thực trong việc cải tạo con người, cải tạo xã hội. Bàn về Phật giáo nhập thế thì vấn đề quan trọng, cốt lõi nhất là con người giữ gìn được sứ mạng đưa Phật giáo vào đời. Phật giáo đi vào cuộc đời thật giản dị nhưng cũng thật cao siêu và màu nhiệm. Trong phạm vi bài viết này, người viết tập trung làm rõ những phẩm chất cốt lõi, quan trọng nhất của một con người hành đạo. Đây cũng chính là đặc trưng của Phật giáo so với các triết thuyết, khoa học, tôn giáo khác cùng làm chức năng đem lợi ích cho cuộc đời.
Người đem Phật giáo vào đời thì người đó phải có chất liệu của người học và thực hành pháp Phật. Chất liệu của pháp Phật là gì? Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật khẳng định: “Lạ thay! lạ thay! Tại sao các chúng sinh này có đủ trí tuệ Như Lai, mà ngu si mê lầm chẳng hay chẳng thấy” [1]. Mục tiêu cốt lõi giáo pháp của Đức Phật là giúp chúng sinh trở về “trí tuệ Như Lai” vốn sẵn có. Trong Kinh Pháp Hoa mục tiêu đó là giúp chúng sinh “khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật”. Còn trong Kinh Viên giác chính là giúp chúng sinh trở về được “tính Viên giác”. Trong Kinh Lăng Nghiêm, bảy lần Đức Phật chỉ cho A nan và đại chúng để nhận ra chân tâm. Tuy phương tiện diễn đạt ngôn ngữ có khác nhau trong mỗi kinh điển nhưng mục đích cuối cùng của Phật giáo là giúp chúng sinh trở về bản chất thâm sâu của con người, trở về con người chân thật vốn có của chính mình. Về mặt hiện tượng, các pháp trong thế gian có sinh, có diệt, con người chịu sự chi phối của quy luật vô thường sinh tử luân hồi nhưng về mặt bản thể, về thực tướng thì tự tính của tất các các pháp bản lai vốn không sinh không diệt, vốn bình đẳng không có phân biệt, đối đãi, vốn bất động không có đến đi. “Bộ mặt chân thật” của con người ẩn đằng sau con người sinh diệt, vô thường, khổ đau thực ra lại là con người có đầy đủ tính thường, lạc, ngã, tịnh. Vậy những năng lực của một con người khi nhận ra được tính Phật vốn sáng suốt tròn đầy, trong sáng, tĩnh lặng nơi mình là gì? Những năng lực này cũng chính là những tố chất cốt lõi của một người mang sứ mạng hoằng truyền đạo pháp.
- Làm chủ nội tâm và hoàn cảnh
Một trong những phẩm chất của người hành đạo là làm chủ nội tâm (không bị phiền não tham, sân, si chi phối) và hoàn cảnh (không bị sắc, thanh, khí, vị, xúc chi phối). Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy “tất cả do tâm tạo”. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật cũng dạy tất cả đều “duy tâm biến hiện”. “Duy tâm” ở đây là sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể, giữa con người nhận thức và thế giới được nhận thức, không có sự tách rời giữa tâm và vật. Đây cũng là ý nghĩa của câu kinh “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc” trong Bát nhã tâm kinh. Sắc và không là mối quan hệ giữa vật và tâm, giữa chân đế và tục đế, giữa bản thể và hiện tượng, giữa chân không và diệu hữu. “Sắc” chính là vật chất, là hiện tượng, là “có” nhưng là “giả có. “Không” không phải trong đối lập với “có” mà là “chân không”, là bản thể, là thực tướng, là chân tâm không hình, không tướng. “Sắc” là “thật có” đối với người còn vô minh, như người bị đau mắt thấy hoa đốm trước hư không, nhầm sợi dây là con rắn, khi hết bệnh đau mắt thì trong hư không không có hoa đốm. Do vậy, khi hết vô minh thì tự tính của “sắc” chính là “không”. Nhưng “không” cũng chính là “sắc” bởi vì tất cả thân, tâm, thế giới đều cùng bản thể chân tâm, từ trong chân tâm hiện ra. Hiện tượng từ trong bản thể mà sinh ra. Hạnh phúc hay khổ đau, sinh tử hay giải thoát đều ở nơi một cái tâm này. Tâm sân giận đọa vào cảnh địa ngục, tâm tham lam, bỏn sẻn sinh cảnh ngã quỷ, tâm si mê vào cảnh súc sinh, tâm tranh đấu, đố kỵ cảnh a tu la, thực hiện tam quy, ngũ giới cảnh người, tu thập thiện và thiền định cảnh chư thiên v.v. Ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới đều do vọng tâm chúng sinh tạo nên nhưng vọng tâm cũng vẫn hiện trên bản thể, trên thực tướng là chân tâm như mối quan hệ giữa sóng và nước. Không phải do chúng sinh khởi vọng tưởng mà chân tâm biến mất mà nó chỉ bị ẩn đi giống như mây che trăng, bụi che gương. Cũng không phải khi thành Phật thì chân tâm mới xuất hiện (vì chân tâm là vốn có) như bản chất của mặt trăng, của tấm gương vốn là trong sáng, chiếu soi. Khi tâm thanh tịnh thì thấy thế giới này thanh tịnh.
Người hành đạo muốn làm chủ tâm mình cần phải bỏ tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước để an trụ vào tánh biết sáng suốt của chân tâm. Làm chủ tâm là làm chủ tất cả như câu kệ 103 trong Kinh Pháp Cú: “Dầu tại bãi chiến trường, Thắng ngàn ngàn địch quân, Tự thắng mình tốt hơn, Thật chiến thắng tối thượng”[2]. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng dạy chúng sinh không nhận cái chân tâm rộng lớn mà chỉ chấp cái vọng thân, vọng tâm cho thật là của mình không khác gì như biển rộng lớn bao la, trong trẻo mà chỉ nhận lấy chút bọt biển nhỏ bé mà lầm tưởng đó là biển cả. Chúng sinh nhận tâm duyên theo cảnh làm mình, mê mình làm vật, bỏ mất chân tâm, bỏ mất khả năng làm chủ sáng suốt nên bị cảnh vật xoay chuyển, phải chịu khổ đau, luân hồi sinh tử. Nếu ai làm chủ tâm thì có thể chuyển xoay được vật. Làm chủ tâm ở đây cũng có nghĩa là sự huấn luyện sáu căn được tự chủ và tự tại khi đối mặt với sáu trần. Thành Phật hay đọa lạc chính ở nơi sáu căn. Nơi sáu căn không dính mắc sáu trần là thanh tịnh. Người hành đạo nếu không tu tập các căn cho thuần thục, cho thanh tịnh thì đứng trước những cám dỗ của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sẽ không làm chủ, tự tại được. Đứng trước địa vị, tài sản, quyền lực v.v. người hành đạo không được chấp trước vào đó để nảy sinh cống cao, ngã mạn. Ngay cả đối với cảnh như ý hay không như ý cũng không khởi tâm tham đắm hay bất mãn mà phải giữ thái độ làm chủ, bình tĩnh. Cảnh như ý mà khởi tâm vui, hài lòng đó là tâm tham, còn nếu cảnh không như ý mà khởi tâm buồn giận thì đó là tâm sân. Tất cả cảnh chỉ là phương tiện để phục vụ cho việc độ sinh. Có duyên với chúng sinh thì tận lực làm, không có duyên thì không tìm cầu bên ngoài mà bổn phận quan trọng nhất của người tu là soi lại chính nơi tâm của mình để sửa đổi. Nhập thế hay xuất thế là tùy duyên, tùy duyên độ đời mà không được phan duyên.
- Có tâm vô ngã, vị tha
Người mang sứ mệnh đưa đạo Phật vào đời, bên cạnh phẩm chất làm chủ nội tâm, hoàn cảnh, còn phải có phẩm chất vô ngã, vị tha. Phật giáo cho rằng thực tướng, bản thể, quy luật của vũ trụ nhân sinh là quy luật duyên sinh – vô ngã. Đây là quy luật mang tính khách quan, tất nhiên, phổ biến và khoa học, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, không phụ thuộc vào đấng thần thánh nào. Nó có giá trị trong mọi không gian và thời gian. Không phải Đức Phật tạo ra quy luật theo ý chủ quan của Ngài. Đức Phật chỉ là người khám phá ra quy luật và chỉ cho chúng sinh hiểu và hành trì thuận theo quy luật. Vô ngã là giáo lý độc đáo nhất của Phật giáo, độc đáo nhất của lịch sử tôn giáo và tư tưởng của nhân loại, làm nền tảng chủ yếu cho các giáo lý Bắc tạng và Nam tạng. Trong Kinh Nykaya thuộc Nam tạng, Đức Phật dạy giáo lý vô ngã như sau: “Này các tỳ kheo, sắc là vô ngã…, thọ là vô ngã…, tưởng là vô ngã…, các hành là vô ngã…, thức là vô ngã….” [3]. Trong Kinh điển Đại thừa Bát nhã thuộc Bắc tạng giáo lý vô ngã chính là pháp “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Giáo lý của Đức Phật là nhằm phá “ngã”, phá quan điểm chấp trước cho rằng con người có một “cái tôi”, một “cái ta” thường hằng. Vô ngã phản ánh tự tính “Không” của vạn pháp – không sinh không diệt, không thường không đoạn, không đến không đi v.v. Vô ngã cũng có nghĩa là chân tâm, Phật tính nơi mỗi chúng sinh.
Bản chất thâm sâu của con người là vô ngã, là chân tâm, là Phật tính. Do vậy, người hành đạo khi đem đạo Phật vào đời, muốn chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của cuộc đời phải có chất liệu của một con người có tâm vô ngã, vị tha. Người hành đạo phải có tâm không vì lợi ích cá nhân mà vì lợi ích cho mọi loài chúng sinh tận hư không khắp pháp giới. Một suy nghĩ, lời nói, hành động nếu còn một chút gì vì lợi ích riêng tư, cá nhân như vì gia đình mình, vì làng xã mình hay vì quốc gia mình, vì tôn giáo mình v.v. thì không được gọi là thiện. Phật giáo xem tất cả chúng sinh đều là ruộng phước để chúng ta gieo trồng. Người hành đạo không chỉ dừng lại ở việc hiểu giáo lý vô ngã bằng ngôn ngữ, tri thức, bằng trí văn, trí tư mà quan trọng hơn hết phải bằng sức sống trải nghiệm của sự thực chứng, của sự thể nhập. Chúng ta phải sống được với tinh thần vô ngã của đạo Phật mới có thể vào đời mà không bị danh, bị lợi làm cho ô nhiễm. Người hành đạo luôn phải có trí tuệ để quán chiếu thân, vọng tâm, thế giới này không phải là ta, không phải là sở hữu của ta, không phải là tự ngã của ta. Tất cả chỉ là phương tiện tạm thời để ta sống, cũng như hành đạo trong cõi đời này. Là phương tiện để ta tu hành, chuyển hóa tham, sân, si, sinh tử thành Niết bàn, giải thoát. Do vậy, người đem đạo vào đời không được chấp trước, nắm giữ bất kỳ cái gì thuộc thế gian này ngay cả Phật pháp. Kinh Kim Cương, Phật dạy Phật pháp còn phải bỏ huống gì là phi pháp. Giáo lý Đức Phật cũng chỉ là phương tiện giúp ta khai ngộ như ngón tay chỉ trăng. Khi tỏ ngộ rồi thì phải buông xả như thuyền đưa người qua sông, khi qua sông thì phải buông thuyền. “Buông xả” toàn bộ thân, tâm, thế giới, không có nghĩa là tiêu diệt, chạy trốn, xóa bỏ tất cả con người cũng như thế giới hiện thực này. “Buông xả” ở đây có nghĩa là buông xả ở trong tâm, buông xả danh văn, lợi dưỡng, tự tư tự lợi, buông xả những suy nghĩ, lời nói, hành động xấu xa, tiêu cực. Người hành đạo muốn đem đạo vào đời cũng vẫn sống trong thế giới ngũ dục, lục trần này nhưng không hề tham đắm vào đó như hình ảnh con chim bay giữa hư không được mô tả trong Kinh Đại Niết Bàn: “Không bao giờ có dấu chim bay nơi hư không. Người hay tu tập pháp quán vô-ngã không bao giờ có các kiến-chấp” [4]. “Không có các kiến chấp” nghĩa là không còn khởi tâm, động niệm, vọng tưởng về lợi ích riêng tư nhỏ hẹp mà chỉ có một tâm trên cầu Phật đạo, dưới cứu giúp chúng sinh muôn loài. Cũng như lời dạy trong Kinh Kim Cương “ưng vô sở trụ, nhi hành bố thí”. Tâm không trụ vào đâu là tâm không sở hữu, tâm không bám chấp, tâm rỗng không, vô tư. Nhờ tâm rộng lớn, bao la, không chướng ngại này mới có thể làm tất cả việc lợi ích cho thế gian mà không chướng ngại. Nơi tâm vô trụ, vô ngã là nơi tâm có sức mạnh bao la, rộng lớn nhất. Trên cơ sở vô chấp, vô trụ, người hành đạo, đem đạo vào đời không những không bị chi phối bởi thế gian mà còn chuyển hóa nhân gian thành tịnh độ.
- Có tâm bình đẳng
Để đưa đạo Phật vào đời, người hành đạo không chỉ cần có tâm vô ngã, vị tha mà cần có tâm bình đẳng. Phật giáo cho rằng thực tướng của vạn pháp là bình đẳng. Do vậy, người đưa đạo pháp vào đời phải có tâm bình đẳng để cứu giúp tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi. Phật tính là bình đẳng nơi mỗi người. Bồ tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa khi gặp bất cứ ai Ngài cũng lễ lạy ngợi khen và nói: “Tôi chẳng dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ làm Phật” [5]. Người đem Phật giáo vào đời phải có tâm bình đẳng để nhận thức rằng trên hình tướng bên ngoài thì chúng sinh có nghiệp riêng, có sai biệt. Còn tính giác hay tâm Phật thì ai cũng như ai, như Tuệ Trung Thượng Sĩ từng nói Phật tính vốn: “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, người người vốn đủ, mỗi mỗi viên thành” [6]. Người hành đạo nhập thế cần trải lòng từ bi và trí tuệ rộng lớn để cứu giúp tất cả chúng sinh muôn loài không phân biệt thân sơ, sang hèn, giàu nghèo. Chúng sinh dù bị tội lỗi, nghiệp xấu che mờ, bị đọa lạc vào đường ngã quỷ, địa ngục hay súc sinh thì hạt giống giác ngộ, tâm Phật của họ vẫn không mất nên vẫn bình đẳng giúp đỡ, hướng đạo cho họ được. Tôn giả Angulimala được nói trong kinh điển Nykaya vốn là một thợ săn bạo tàn, là một tên cướp giết hại nhiều người. Một con người độc ác như vậy, nhờ lời dạy của Phật tu tập chuyển nghiệp và đắc quả A la hán. Cũng vậy, trong Kinh Pháp Hoa, Bà Liên Hoa Sắc vốn là kỹ nữ nhưng được Ngài Mục kiền liên chỉ dạy nên bà tỉnh ngộ, tiến tu và giác ngộ. Cô dâm nữ Ma đăng già trong Kinh Lăng Nghiêm cũng có thể sửa đổi để chứng quả A la hán.
Người hành đạo cần sống và hành động theo tinh thần bình đẳng. Trách nhiệm của người hành đạo là xây dựng mối quan hệ bình đẳng, hòa hợp, đoàn kết giữa con người với con người, con người với tự nhiên, cá nhân với quốc gia dân tộc, quốc gia với quốc gia, tôn giáo với tôn giáo, tôn giáo với khoa học v.v. Con người hiện tại phải sống trong sự kết nối dung thông và có trách nhiệm với quá khứ và tương lai. Một suy nghĩ, một lời nói, một hành động của ta đều ảnh hưởng đến không gian trong phạm vi mười pháp giới (địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, a tu ta, người, trời, thanh văn, duyên giác, Bồ tát, Phật) cũng như có ảnh hưởng đến thời gian thuộc phạm vi cả ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai). Tinh thần trong Kinh Hoa nghiêm xóa bỏ không gian, thời gian, không gian tức thời gian, thời gian tức không gian. Một là tất cả, tất cả là một. Một sợi lông có thể chứa cả càn khôn, vũ trụ; một hạt cải có thể bao gồm tất cả mặt trời, mặt trăng. Một niệm hiện tại có thể chứa cả quá khứ và tương lai, kiếp vị lai chứa quá khứ và hiện tại, một niệm có thể chứa ba đời nhiều kiếp. Tất cả pháp giới bao gồm không gian và thời gian đều chung một pháp thân, chung một bản thể bất sinh bất diệt. Chúng sinh mười phương là pháp thân của ta, thế giới tự nhiên cũng là pháp thân của ta. Nhìn tất cả các pháp là bình đẳng thì đâu đâu cũng là Phật pháp. Ðây là ý nghĩa trong Kinh Kim Cương: “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất thiết chư Pháp vô phi Phật pháp” và các tư tưởng Bắc tạng thường đề cập: “Phiền não tức Bồ đề”, hay “Sinh tử tức Niết bàn”, hoặc “Thiết lập nhân gian Tịnh độ”. Khi có trí tuệ quán chiếu để thấu rõ thực tướng như thật của các pháp là bình đẳng thì pháp nào cũng là Phật pháp, sinh tử cũng là Niết bàn.
- Phát huy được sức mạnh của Tuệ giác
Cuối cùng, người mang sứ mệnh đưa đạo Phật vào đời phải là người có tuệ giác, phát huy được sức mạnh của tuệ giác. Người tu hành (xuất gia và tại gia) nếu không nắm rõ vấn đề này thì những hoạt động được coi là Phật sự có thể rất dễ biến thành ma sự, độ đời chưa được mà bị đời làm cho ô nhiễm. Thay vì đem chất liệu từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha, bình đẳng của đạo Phật để làm cho đời ngày càng tốt đẹp, con người lại đem danh lợi vào đời từ đó làm mất đi giá trị cao đẹp của Phật giáo. Người con Phật đưa đạo Phật vào đời, làm tất cả các Phật sự mà vẫn tự tại, an lạc, làm chủ những cám dỗ của ngũ dục, lục trần bên ngoài là điều không phải ai cũng có thể làm được. Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy nếu đem tâm luân hồi mà bàn về tính viên giác thì tính viên giác cũng thành luân hồi. Phật cũng dạy trong kinh Lăng nghiêm, không thể lấy vọng tâm mà nghe chính pháp vì nếu lấy vọng tâm mà nghe chính pháp thì chính pháp cũng trở thành tà pháp. Cũng vậy, không thể đem tâm thế gian (tâm tham, sân, si) để độ thế gian mà phải bằng tâm xuất thế mới có thể độ được đời, mới thực sự là nhập thế.
Phật giáo dù từ cấp độ giản dị như trong Kinh Pháp Hoa dạy chỉ với tâm tán loạn vào chùa mà xưng được một câu “nam mô Phật” cũng đã thành Phật. Một người chỉ cần nghe tên kinh Viên giác hoặc nghe nghĩa một câu trong kinh thì công đức cũng lớn hơn công đức của người cúng dàng bảy món báu, chứa đầy đại thiên thế giới. Còn trong kinh Địa Tạng thì chỉ với việc làm lành bằng “mảy lông sợi tóc” thì Bồ Tát Địa tạng cũng độ cho chúng sinh đó thoát khổ. Người đem giáo pháp vào đời không cần chất liệu gì cao siêu mà đơn giản chỉ là làm một việc là gieo vào trong tâm thức chúng sinh những chủng tử thiện lành như giúp chúng sinh niệm một câu Phật hiệu, nghe tên của một bộ kinh hay làm một việc thiện nhỏ như sợi tóc. Hành đạo ở mức độ đơn giản chỉ là như vậy.
Đạo Phật cho tới cấp độ “vô thượng thậm thâm vi diệu”. Người đem Phật giáo vào đời muốn thực sự làm chủ được tâm mình, muốn thể nhập được tâm vô ngã, tâm bình đẳng thì tố chất quan trọng nhất là phải phát huy được sức mạnh của tuệ giác, không bị đời làm cho ô nhiễm. Mục tiêu của đạo Phật là tuệ giác. Nghĩa của từ Phật cũng chính là giác mà không mê. Nhờ có tuệ giác chúng ta mới có thể hòa vào thế gian, vào dòng đời ô nhiễm mà không bị khách trần thế gian làm cho ô nhiễm như sen ở trong bùn mà bùn không làm bẩn được sen. Nhờ có ánh sáng này mà người hành đạo vào đời có thể biến vị ngọt của ngũ dục vốn là nguyên nhân của khổ đau trở thành vị ngọt của chân lý, của chính pháp. Trí tuệ hay tuệ giác chính là ánh sáng vượt lên trên mọi ánh sáng của thế gian có thể xua tan màn đêm đen tối của vô minh tham, sân, si.
Muốn có tuệ giác, muốn có tâm xuất thế thì phải hành trì giới luật (không làm các việc ác, làm tất cả các việc lành). Do vậy, người hành đạo cũng phải thể hiện là con người có thực hành giới luật của Phật (giới cho người tại gia và xuất gia) một cách nghiêm minh. Nhờ giới sinh định, nhờ định phát tuệ. Định và tuệ là sức mạnh tiềm ẩn mà chúng ta ai cũng vốn có sẵn nhưng bị nghiệp lực, vô minh che mất. Trí tuệ ở đây không phải là trí thức phân biệt được gọi là thông minh của thế gian mà tuệ giác là trí vô phân biệt, bình đẳng. Trí thế gian là sản phẩm của sở hữu tướng. Thế gian nhiều người thông minh, học rộng, biết nhiều, thông suốt các ngành nghề của thế gian nhưng dùng trí đó để mua danh, đoạt lợi để thỏa mãn dục vọng, tăng trưởng bản ngã. Đây là con đường của thoái đọa không đi theo con đường của trí tuệ tâm linh. Trí tuệ có chức năng thấy rõ bản chất các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã để buông xả. Tuệ giác cũng có nghĩa là bình đẳng và hòa hợp, trung đạo, không có đối đãi nhị biên. Tuệ giác cũng có nghĩa là không còn ích kỷ, cá nhân, là vô ngã.
Tâm làm chủ, tâm vô ngã, tâm bình đẳng là điểm khởi đầu của một người tu hành giải thoát, cũng là điểm khởi đầu cho người muốn đưa Phật pháp vào đời và khi chứng đạo cũng là chứng đạt tâm này. Bản thể của vạn pháp, thực tướng của vũ trụ nhân sinh thì siêu vượt ngôn ngữ, khái niệm, không thể chia tách. Con người khôi phục được sức mạnh của tuệ giác, thể nhập được tự tính vô ngã, bình đẳng, bất động của vạn pháp được sâu hay cạn phản ánh sự thành tựu trên con đường tu đạo, hành đạo cũng như chứng đạo của người đó. Trên cơ sở đó, mỗi hành giả lựa chọn con đường tu đạo và hành đạo cho phù hợp với căn cơ và nguyện lực của mình.
Thực tướng của vạn pháp là “Không”, là vô ngã, là bình đẳng, là bất động. Thể nhập được tính vô ngã, tính bình đẳng, tính bất động của chân lý là vai trò của người con Phật muốn đem đạo Phật vào đời, làm tốt đời, đẹp đạo, tự lợi và lợi tha. Muốn nhập thế phải có tư tưởng xuất thế nhưng xuất thế cũng nằm ngay tại thế gian này. Giải thoát không có ở đâu bên ngoài tâm này. Phương châm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là “Đạo pháp – Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. Hơn lúc nào hết, nhân loại đang rất cần những con người thực học, thực tu, thực chứng giáo pháp của Phật – thực chứng chân lý để đưa đạo vào đời, để chuyển hóa cuộc đời. Đó là trách nhiệm lớn lao của người xuất gia nói riêng và loài người nói chung.
Thích Nữ Huệ Nghiêm
Tài liệu tham khảo
- Thích Trí Tịnh dịch (2005), Kinh Hoa nghiêm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
- Thích Minh Châu dịch (2006), Kinh Pháp cú, Tôn giáo, Hà Nội.
- Thích Minh Châu dịch (2014), Tương ưng bộ kinh, tập 3, chương “Thiên uẩn”, NXB. Tôn giáo, Hà Nội.
- Thích Trí Tịnh dịch (2018), Kinh Đại bát Niết bàn, tập 1 NXB, Hà Nội.
- Thích Trí Tịnh dịch (2012), Kinh Diệu pháp liên hoa, NXB. Tôn giáo, Hà Nội.
- Thích Thanh Từ (1996), Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành.
[1] Thích Trí Tịnh dịch (2005), Kinh Hoa nghiêm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 644.
[2] Thích Minh Châu dịch (2006), Kinh Pháp cú, NXB. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 235.
[3] Thích Minh Châu dịch (2014), Tương ưng bộ kinh, tập 3, chương “Thiên uẩn”, NXB. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 442
[4] Thích Trí Tịnh dịch (2018), Kinh Đại bát Niết bàn, tập 1 NXB, Hà Nội, tr. 73
[5] Thích Trí Tịnh dịch (2012), Kinh Diệu pháp liên hoa, NXB. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 478
[6] Thích Thanh Từ (1996), Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành, tr.9